Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiến Thắng và Chiến Bại - KINH SANGAMA - SUTTA

30/11/201016:58(Xem: 7954)
Chiến Thắng và Chiến Bại - KINH SANGAMA - SUTTA

Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

Chiến Thằng và Chiến Bại
KINH SANGAMA - SUTTA

Dướiđây là một bản kinh ngắn trích từ Tương ưng bộ kinh(Samyutta-Nikaya),gồm 5 quyển, Ấn bản PTS, 1892-1898. Bản kinh này được Đại Đức Môhan Wijayaratnadịch từ tiếng Pali sang tiếng Pháp trong quyển "Những bài thuyết pháp của Đức Phật"(LesSermons du Bouddha, nhà xuất bản Cerf, 1988, Paris, tr.46-48). Tên của bàikinh này là Sangama(tiếng Pali) cónghĩa là một trận chiến haymột cuộc chiến.

Một lần, Đấng Thế Tôn đang ở thành XáVệ (Savatthi). Lúc đó vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đangthúc quân gồm bốn sư đoàn (1) tiến đến tận thành Kasi để khai chiến với vuaPasenadi Kosala của xứ Kiều Tát La (Kosala). Hay tin vua Vedehiputta mang quântấn công lãnh thổ của mình, vua Pasenadi cũng tức thời khởi binh kéo bốn sưđoàn đến thành Kasi để nghênh chiến. Thế là hai vị quốc vương xua quân nhập trậnvà sau một cuộc hỗn chiến thì vua Vedehiputta đánh thắng được vua Pasenadi. Vịvua bại trận phải rút về kinh đô của mình là thành Xá Vệ.

Hôm đó, như thường lệ các đệ tửkhoác áo (2), ôm bình bát đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Sau khi khất thực trởvề và ăn xong thì họ tìm đến bên cạnh Đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễĐấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với Đấng Thế Tônnhư thế này : "Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đàkhởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để khai chiến với vua PasedaniKosala. Vua Pasedani hay tin vua Vedehiputta xua quân xâm lược, cũng đã khởibinh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại quân của vua Vedehiputta(...)".

Đấng Thế Tôn nói như sau :

"Này các tỳ kheo, Vedehiputta là một người bạn thiếu đạo hạnh, là mộtngười đồng hành thiếu đạo hạnh, là một người thân thuộc thiếu đạo hạnh (3).Này các tỳ kheo, trong khi đó thì vuaPasedani Kosala là một người bạn đạo hạnh, là một người đồng hành đạo hạnh, làmột người thân thuộc đạo hạnh. Trong lúc này vì thất bại nên vua PasedaniKosala sẽ phải chịu cảnh đau buồn ".

Kế đó Đấng Thế Tôn nói tiếp như sau:

" Chiến tranh gây ra hận thù,

Kẻ bại trận rơi vào cảnh khốn cùng.

Ai muốn tìm lấy sự yên tịnh,

Từ bỏ mọi ý nghĩ về chiến thắng hay bại trận,

Sẽ tìm thấy an lạc cho chính mình".

[Mộtthời gian sau, vào một lần khác], vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà một lần nữalại khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để khai chiến với vuaPasedani của xứ Kiều Tát La. Hay tin vua Vedehiputta xua quân tấn công, vuaPasedani cũng khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại. Thế làhai vị quốc vương xua quân vào trận chiến. Lầnnày, vua Pasedani là người chiến thắng, bắt sống được vua Vedehiputta. VuaPasedani tự nhủ rằng : "Mặc dầu ta không hề hận thù vị vua này, [nhưng] vịvua này lại hận thù ta. Và dầu sao đi nữa, hắn cũng là cháu ta (4). [Vì thế] tachỉ nên tóm thâu quân đội của hắn mà thôi, gồm sư đoàn voi trận, sư đoàn kỵbinh, sư đoàn chiến xa, sư đoàn bộ binh. Riêng Vedehiputta thì ta không giết màtha cho hắn được tự do". Và thế là vua Pasedani tịch thu cả đạo quân củaVedehiputta và tha cho ông ta.

Vào sáng sớm tinh sươnghôm đó, nhiều đệ tử mặc áo cà sa, ôm bình bát và khoác thêm áo ấm đi vào thànhXá Vệ khất thực. Sau khi khất thực trở về và ăn xong thì các vị tỳ kheo tìm đếnbên cạnh đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với ĐấngThế Tôn như sau : " Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà xuaquân gồm có bốn sư đoàn tiến đến tận thành Kasi khai chiến với vua PasedaniKosala. Vua Pasedani sau khi hay tin vua Vedehiputta kéo quân xâm lăng, cũng khởibinh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để chống cự với quân của vuaVedehiputta (...). Thế là vua Pasedani tịch thu cả quân đội của Vedehiputta vàtha cho vị vua này".

Sau khi nghe thuật lạichuyện và biết đuợc tự sự, Đấng Thế Tôn nói như sau :

"Một người làm tan tành sự nghiệp của người khác
cho đến một lúc hành động
(nghiệp)của mình sẽ làm tan tành sự nghiệp của chính mình.
Tuy thế, khi sự nghiệp của mình đã bị người khác làm cho tan tành,
và dù cho sự nghiệp đã tan tành, thì mình vẫn cứ làm cho người khác phải tan tành sự nghiệp.
Đến một lúc nào đó thì hành động
(nghiệp)của mình sẽ chín muồi,
[Nhưng ] kẻ ngu đần lại cứ tưởng rằng : " đây là thời cơ của mình đã đến".
Tuy nhiên, khi hành động
(nghiệp)của mình đến lúc đã chín muồi,
thì kẻ ngu đần ấy không sao thoát khỏi khổ đau.
Người sát nhân sẽ tìm thấy kẻ giết mình trong tương lai,
người chiến thắng sẽ tìm thấy kẻ đánh bại mình trong tương lai,
kẻ xúc phạm người khác sẽ tìm thấy người xúc phạm lại mình trong tương lai,
kẻ gian ác sẽ tìm thấy người gian ác với mình trong tương lai,
thế đó, tùy vào sự chín muồi của hành động đã thực thi,
và dù cho sự nghiệp đã tan tành, nhưng hắn
(kẻ ngu đần) vẫn làm cho tan tành sự nghiệp của người khác.
(Samyutta-Nikaya, I, 82-85)

Vài lời góp ý của người dịch :

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, chiếntranh mang tính cách trực tiếp và đơn giản hơn ngày nay rất nhiều, và chiến thắnghay chiến bại do đó cũng minh bạch hơn. Ngày nay xã hội con người trở nên phứctạp hơn, chiến tranh cũng theo đó mà đa dạng hơn, mang nhiều sắc thái và khía cạnhkhác nhau, từ kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa cho đến nhân phẩm và cả sự tựtrọng của một dân tộc. Vì thế mà chiến thắng trên một khía cạnh nào đó cũng khôngcó nghĩa là chiến thắng được tất cả.

Câu chuyện chiến tranh trên đây chothấy trên cùng một mặt trận Kasi nhưng lúc thì vua này thắng, lúc thì vua kiathắng, vì thế không có một chiến thắng nào muôn đời, cũng không có một chiến bạinào mãi mãi. Cái chiến thắng vững bền hơn hết là chiến thắng chính mình trước nhữngkhích động của bản năng và tham vọng. Khi nào ta vẫn còn quan tâm đến chiến thắngvà chiến bại thì khi đó ta vẫn còn nô lệ cho những xúc cảm bấn loạn trong lòng.Trong kinh SangamaĐức Phật đã dạy nhưsau : "Nếu ai biết tìm lấy sự yên tịnh, đừng nghĩ đếnmình là người chiến thắng hay chiến bại, thì người ấy sẽ tìm thấy sự an lạc".

Bures-Sur-Yvette,15.07.10

Hoang Phong

Ghi chú :

1-Bốn sư đoàn có nghĩa là : sư đoàn voi trận, sự đoàn kỵ binh, sư đoàn chiến xa,sư đoàn bộ binh.

2- Khoác áo : có nghĩa là ngườitỳ kheo mặc thêm một áo ấm may bằng hai lớp vải gọi là sanghati.

3- Thiếu đạo hạnh ở đây có ý ámchỉ vua Vedehiputta Ajatasattu đã cướp ngôi cha, nhốt cha mình vào ngục và cốtình để cho cha chết đói.

4- Vua Vedehiputta Ajatasattu làcon trai của chị vua Pasedani Kosala, tức là cháu cùa vua Pasedani Kosala và gọivua Pasedani Kosala bằng cậu.

Bìa quyển sách "Những bài thuyết pháp của Đức Phật"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/07/2011(Xem: 13311)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
11/07/2011(Xem: 12933)
Lá sen "cõng người", chuyện tình Rùa Hạc là những câu chuyện có thật trong Phước Kiển Tự. Trong cõi nhân gian này, không thiếu những sự kiện ly kỳ khó lý giải, và ở nơi này nơi kia, vào thời gian này thời gian nọ, biến động của cuộc sống luôn chứa đựng những bí ẩn trông chờ các nhà khoa học giải mã. Một hiện tượng lạ, một câu chuyện lạ, để thấy rằng, cuộc sống này có rất nhiều điều con người chưa khám phá hết.
10/07/2011(Xem: 7645)
Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa tròn 76 tuổi hôm Thứ Tư 6-7-2011, một ngày cũng là khởi đầu cho một loạt buổi thuyết giảng, truyền pháp và hướng dẫn tu học pháp môn Kalachakra cho nhiều ngàn Phật Tử tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
10/07/2011(Xem: 16701)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốt và tình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
09/07/2011(Xem: 13025)
Có lẽ danh từ “Phật đảo“ tôi dùng cho xứ đảo Đài Loan có hơi lạ tai với các bạn, vì từ đó đến giờ ta chỉ nghe nào là “Hải đảo chiều mưa“ hay “Ốc đảo cô đơn“, chứ chưa ai dám dùng từ chứa nhiều cường điệu như thế! Nhưng quả thật là như thế các bạn ạ! Một cụm đảo gần chín mươi chín hòn nhỏ to đủ cỡ, không lấy gì làm lớn cho lắm nằm chơ vơ giữa biển mà đi đến đâu cũng thấy những tượng Phật vĩ đại và Chùa chiền với tầm vóc đáng ngại, nhìn vào phải bái phục khen thầm, ấy là chưa kể tinh thần tu học nghiêm mật và trật tự của Phật tử Đài Loan.
08/07/2011(Xem: 8671)
Trước những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại ngày một xuất hiện nhiều sản phẩm cứu người và giết người tân kỳ mới lạ, con người thường xuyên đứng trước những ngã ba đường của sự chọn lựa thiện ác, khen chê.
08/07/2011(Xem: 8084)
Sau khi nhóm Khóm Hồng San Diego phổ biến tập Hạnh Phúc kỳ diệu vào mùa xuân 1993, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến đóng góp tích cực. Nhận thấy sự cần thiết trình bày thêm những cách thức cụ thể áp dụng trong sinh hoạt hàng ngày để duy trì và phát triển niềm an vui trong lành, tươi mát và tích cực, chúng tôi đã soạn thêm trên một trăm trang cho kỳ tái bản này. Joseph Campbel, nhà huyền thoại học trứ danh của Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ hai mươi này, khi được sinh viên của ông hỏi họ phải chọn lựa con đường nào, ông ta trả lời không chút do dự: “Hãy đi theo niềm an vui kỳ diệu của chính mình.”
04/07/2011(Xem: 7420)
Lễ lạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tương truyền rằng trong văn hóa truyền thống cổ của người Ấn Độ có tập tục đi lễ lạy các thánh tích gọi là "Tuần lễ", chỉ cho việc đi về thánh tích của các bậc thánh nhân lễ lạy, để cầu nguyện và cũng là cảm niệm tưởng nhớ, đến hành trạng cũng như công đức của vị thánh, thần đó đã đem đến cho thế gian.
02/07/2011(Xem: 7478)
Đối với Phật giáo, vũ trụ được sanh ra như thế nào, con người bắt đầu từ đâu không có gì quan trọng vì tất cả chỉ là thế giới hiện tượng có sinh có diệt. Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử đặt ra những câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng :
30/06/2011(Xem: 9432)
Từ ngày tôi được quy y thọ tam quy ngũ giới với Sư phụ tôi, được Người truyền cho Giới Hương đầu tiên trong ba nén hương Giới Định Huệ; đến nay đã gần 14 năm, nhưng tôi chưa bao giờ có nhân duyên được theo Thầy đi hành hương đến một xứ sở nào. Nếu phải nói lý do tại sao? Thôi thì đành dùng tạm bốn chữ “chưa đủ nhân duyên“.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]