Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Nhìn xa trông rộng

18/11/201017:17(Xem: 6678)
7. Nhìn xa trông rộng


NHÌN XA TRÔNG RỘNG

Hôm nay, trong khi đang đi Thiền hành, tôi cảm thấy rất đói và mệt nhưng cũng rất hạnh phúc. Khi đi bộ vào mỗi sáng, tôi cũng cảm thấy rất hạnh phúc và tôi nhận thấy rằng khi chúng ta thiền tập có điều gì đó đang thay đổi trong ta: chúng ta cảm thấy mình có tầm nhìn cao xa hơn trong cuộc sống. Những cảm giác này như là một phần thưởng chúng ta nhận được trong quá trình thực tập của mình.

Trong nhiều truyền thống Phật giáo, kể cả truyền thống Phật giáo Tây Tạng, vòng tròn là một biểu tượng đầy quyền năng thiêng liêng. Trong các buổi lễ của các truyền thống này, hình vòng tròn được dùng theo những cách như: Vẽ một vòng tròn xung quanh bạn và bạn đứng ở tâm của vòng tròn và tưởng tượng là bạn đang đứng giữa trung tâm của vũ trụ. Cái vòng tròn quanh bạn cho bạn cảm giác rằng bạn luôn ở tại một nơi rất thiêng liêng.

Giáo lý thực nghiệm Phật giáo thường nói đến chánh niệm tỉnh giác. Chúng ta được dạy về chánh niệm qua môn Oryoki, qua lễ lạy và bằng cách sống với hơi thở của chúng ta, đính nhãn hiệu “suy nghĩ” lên những ý tưởng của chúng ta. Nó rất chuẩn xác và cũng rất dịu dàng. Đi kèm với sự trở nên tinh tế đối với thế giới xung quanh, luôn có một không gian bao quanh chúng ta, đó là sự hòa dịu: Chúng ta cho phép mình trực nhận sự rộng lớn, tính đa dạng phong phú, muôn màu muôn vẻ của thế giới như thế nào. Không gian đó là vòng tròn của chúng ta.

Khi nói về chánh niệm và tỉnh giác, chúng ta không nói về một cái gì đó quá cứng nhắc, một nguyên tắc chúng ta thiết lập để có thể làm sạch hành động của mình và trở nên tốt hơn, đứng vững hơn và trông đẹp hơn. Chúng ta chỉ thực tập một vài ý niệm về tình yêu và sự tử tế đối với mọi vật, đối với chiếc microphone này, đối với đôi tay của chúng ta, đối với căn phòng này và đối với những cánh cửa mà chúng ta đi ra đi vào hằng ngày. Sự quan tâm tức là lòng yêu thương đối với tất cả những gì trong cuộc sống chúng ta, sự ý thức là bản chất tự nhiên của vạn vật: Cuộc sống bắt đầu được rộng mở và bạn nhận thấy rằng bạn đang đứng tại trung tâm của thế giới.

Một số các bạn có lẽ đã đọc cuốn sách nhan đề “Blach Elk Speaks” (Black Elk tuyên bố), trong đó một người đàn ông Ấn kể rằng ông đã có một tầm nhìn rộng lớn như thế nào khi ông ta lên 9 tuổi. Ông ta đau nặng đến nỗi mọi người tưởng rằng ông ta sắp chết, ông bị hôn mê trong hơn một tuần, trong suốt thời gian đó, ông được chỉ dẫn về cách sống thiêng liêng mà dân tộc ông đã sống đang dần bị mất đi như thế nào. Ông cũng được chỉ dẫn những phương pháp để giữ nó khỏi bị mất đi hoàn toàn. Trong cơn hôn mê, ông được đưa lên đỉnh của ngọn Harney Peak, trên những ngọn đồi đen của vùng Dakota, nơi mà dân bản xứ Mỹ xem như là trung tâm của thế giới. Nhưng sau khi được đưa đến Harney Peak và được nhìn thấy khung cảnh cao rộng ấy, ông nói rằng ông nhận thấy đâu đâu cũng là trung tâm của thế giới. Một cách cơ bản, bất cứ bạn ở đâu, ở đó là trung tâm của thế giới. Bạn luôn đứng ở trung tâm của không gian thiêng liêng, luôn đứng ở trung tâm của vòng tròn thiêng liêng.

Người ta thường nói rằng: “Thiền tập thì rất tốt, nhưng nó giúp được gì cho cuộc sống của tôi?” Những gì Thiền tập giúp cho cuộc sống của bạn có lẽ là sự thực tập đơn giản về sự tập trung tâm ý này–sự từ hòa trong lời nói, hành động và trong những suy nghĩ vận hành trong tâm trí bạn–bạn sẽ bắt đầu thấy rằng bạn luôn luôn đứng giữa vòng tròn thiêng liêng, và đó là cả cuộc sống của bạn. Căn phòng này không phải là vòng tròn thiêng liêng. Gampo Abbey không phải là vòng tròn thiêng liêng. Bất cứ ở đâu bạn đến trong những ngày còn lại của cuộc đời, bạn sẽ luôn luôn ở giữa hoàn vũ và vòng tròn luôn luôn bao quanh bạn. Bất cứ ai đi đến với bạn đều đã thâm nhập vào không gian thiêng liêng ấy và đó không phải là một tai họa. Bất cứ cái gì thâm nhập vào không gian ấy đều ở đó để bạn được học hỏi.

Qua kinh nghiệm của tôi về Phật giáo, qua tình yêu sâu xa và lòng tôn kính của tôi đối với các bậc tôn sư, qua giáo lý và qua thực tập, tôi nhận thấy rằng rất hữu ích nếu tôi bám lấy một phương tiện và cứ thế tiến xa và tiến xa hơn nữa. Làm như vậy, tôi bắt đầu nhận ra sự tuyệt diệu của trí tuệ con người và nhận thấy rằng con người khám phá ra cùng một chân lý qua nhiều
phương cách. Thiền tập sẽ khơi mở cuộc sống của bạn để bạn không bị mắc kẹt trong việc chỉ quan tâm đến bản thân mình, chỉ muốn cuộc sống trôi theo con đường của bạn. Trong trường hợp đó, bạn sẽ không nhận thức được bạn đang đứng ở trung tâm của thế giới, không nhận thức được bạn đang ở giữa vòng tròn thiêng liêng vì bạn đang quá bị liên hệ với những nỗi lo toan, đau khổ, khát khao, lo sợ nhỏ nhen đến nỗi bạn mờ mắt đối với những vẻ đẹp của hiện hữu. Tất cả những gì bạn cảm nhận được khi mắc kẹt như vậy chỉ là khổ đau, cũng như nỗi bất mãn về cuộc sống nói chung. Thật kỳ lạ! Cuộc sống thật mầu nhiệm nhưng hầu hết thời gian chúng ta chỉ cảm thấy bực tức về những gì mà cuộc sống mang lại cho chúng ta.

Một lần nọ, có một phụ nữ rất kiêu kỳ và hãnh diện. Cô ta muốn đạt đến sự giác ngộ, vì vậy cô ta hỏi tất cả những người có ưy tín làm thế nào để đạt đến giác ngộ. Một người bảo: “À, nếu cô leo lên được trên đỉnh của ngọn núi cao này, cô sẽ thấy một cái hang ở đó, trong hang có một bà lão thông thái và bà ấy sẽ nói cho cô hay”. Vì vậy cô gái nghĩ: “Được, tôi sẽ đi, không
gì ngăn cản được tôi”. Chịu đựng nhiều gian nan vất vả cuối cùng cô cũng đến được cái hang, và đúng, có một bà lão trông rất thông thái trong bộ đồ màu trắng đang mỉm cười hiền từ với cô. Thầm phục và kính trọng, cô quì xuống dưới chân bà lão và yêu cầu: “Con muốn đạt được giác ngộ. Xin bà chí dạy cho con”. Vẫn với nụ cười hiền từ trên môi, bà lão hỏi: “Con có chắc là con muốn đạt được giác ngộ không?” và cô gái trả lời: “Vâng, con chắc chắn”. Bà lão bỗng hóa thành một con quì sa tăng, đứng dậy và cầm một chiếc gậy lớn đánh đuổi cô và nói: “Bây giờ! Bây giờ! Bây giờ!”. Những ngày còn lại của cuộc đời, người phụ nữ ấy không bao giờ quên được con quỉ sa tăng với lời nói: “Bây giờ! Bây giờ!”.

Rinpoche cũng thường nói đến hiện tại. Chương “Hiện tại” và chương “Khám phá điều mầu nhiệm” trong cuốn Shambhala: Con đường thiêng liêng của một dũng sĩ của ông đều nói lên những gì mà tôi đang đề cập ở đây. Nếu bạn muốn đạt được giác ngộ, bạn phải thực hiện nó ngay bây giờ. Nếu bạn tỏ ra kiêu căng và cứng đầu, thì tốt hơn nên có người cầm roi rượt theo bạn. Nhưng khi càng cởi mở với con tim của mình thì bạn càng trở nên thân thiện với thân thể, lời nói hay tâm trí của bạn và cả với thế giới trong vòng tròn của bạn–những vấn đề nội tâm của bạn, những người sống quanh bạn, ngôi nhà mà bạn thường ăn sáng mỗi ngày–bạn càng cảm thấy hợp lý rằng khi bạn mở vòi nước thì nước sẽ tuôn ra. Nếu bạn đã từng sống thiếu nước, bạn sẽ thấy điều đó thật là mầu nhiệm. Thế giới có đủ tất cả những sự mầu nhiệm, mọi việc đều tương tự như vậy và thật sự tuyệt diệu.

“Bây giờ”, đó là chiếc chìa khóa để mở cửa giác ngộ. Bây giờ, bây giờ và bây giờ. Chánh niệm dạy bạn tỉnh thức , sống dậy và đầy hiếu kỳ về điều gì ? Về “Bây giờ”, có đúng không? Bạn ngồi trong tư thế thiền tập và hơi thở ra của bạn là Bây giờ, sự tỉnh thức khỏi vọng tưởng của bạn cũng là Bây giờ và ngay cả các vọng tưởng cũng là Bây giờ, mặc dù chúng dường như đưa bạn về một dĩ vãng hay đến một tương lai xa xôi nào đó. Bạn càng ý thức được hiện tại, bạn càng nhận thấy rằng bạn đang ở trung tâm thế giới, đang đứng giữa vòng tròn thiêng liêng. Đó không phải là một việc tầm thường dù bạn đang chải răng, nấu ăn hay đang tắm rửa. Bất cứ điều gì bạn đang làm, bạn đang làm nó ngay bây giờ.

Phương pháp của chúng ta là hãy dùng những gì chúng ta được ban tặng để tỉnh thức. Nếu có hai người cực kỳ giống nhau–về thân thể, về lời nói, về suy nghĩ, về cha mẹ, về nhà cửa và về mọi thứ–thì một trong hai người sẽ có thể sử dụng những gì mình có để tỉnh thức và người kia có thể dùng nó để trở nên phẫn hận hơn, cay đắng và khổ đau hơn. Không thành vấn đề là bạn được ban tặng cái gì, một cơ thể dị dạng, một sức khỏe dồi dào hay là sự cùng khò, sắc đẹp hay là sự xấu xí, đầu óc nhạy bén hay không minh mẫn, cuộc sống giửa những nhà cửa to lớn hay cuộc sống ở một hoang mạc yên tĩnh, hẻo lánh. Bất cứ cái gì bạn được ban tặng nếu có thể làm bạn tỉnh thức hay làm bạn rơi vào mê ngủ. Đó là sự thách thức của hiện tại: Bạn sẽ làm gì với những điều bạn hiện có–thân thể, ngôn ngữ và tâm trí của bạn?

Đây là một vài điều rất hữu ích để giúp bạn biết về hiện tại. Cái rào cản lớn nhất ngăn chúng ta nhận thức rõ hơn về cuộc đời chính là những xúc cảm của chúng ta đã làm chúng ta mắc kẹt và mờ mắt. Càng nhạy cảm về điều này, chúng ta càng nhận ra rằng khi bắt đầu giận dữ hoặc tự chê trách mình, khát khao mọi thứ một cách đau khổ, thì chúng ta bắt đầu đóng cửa, gạt bỏ tất cả như thử chúng ta đang ngồi bên bờ vực thung lũng Grand Canyon (Hẻm núi lớn ở bang Arizona) nhưng đã trùm lên đầu chúng ta chiếc túi đen lớn.

Bạn có thể kiểm nghiệm điều này. Bạn có thể leo lên những bờ vực nhìn ra vịnh Saint Lawrence và cái cảm giác đầu tiên luôn là: “Ôi dào, nó thật rộng lớn!”. Và đầu óc bạn bắt đầu cởi mở. Nhưng nếu bạn đứng đó lâu, bạn sẽ bắt đầu lo lắng về điều gì đó. Rồi bạn nhận thấy mọi vật dường như ngừng hoạt động và trở nên nhỏ bé. Kỹ xảo về hiện tại là bạn hãy cởi mở đối với không gian ấy. Bạn luôn có thể làm điều đó bất cứ lúc nào, nó sẽ làm bạn trở nên thân thiện với chính bạn. Nó sẽ giúp bạn nhận thức được về cơn giận của bạn, về sự tự phản đối chính mình, về những khao khát và những mong muốn, về sự chán chường của bạn và làm bạn trở nên thân thiện với chính hiện tại này.

Có một câu chuyện mà có lẽ bạn đã đọc, nó liên quan đến những gì chúng ta gọi là thiên đàng và địa ngục, sống và chết, tốt và xấu. Đó là một câu chuyện kể về những điều không hiện hữu, ngoại trừ sự tưởng tượng của chính bộ óc chúng ta. Câu chuyện như sau: Có một viên sĩ quan oai vệ đến gặp một nhà thông thái và yêu cầu: “Hãy nói cho tôi biết về thiên đàng và địa ngục”. Nhà thông thái nhìn vào mặt anh ta và bảo: “Tại sao tôi phải nói điều đó cho một kẻ thô lỗ ghê tởm và bẩn thỉu như anh?”. Viên sĩ quan tím mặt lại, tóc tai dựng cả lên, nhưng nhà thông thái vẫn không ngừng bôi nhọ: “Ai lại đi nói với một con bọ gớm ghiếc như anh!”. Cơn giận bốc lên phừng phừng, viên sĩ quan rút gươm và khi anh ta sắp chém đấu nhà thông thái thì nhà thông thái bảo: “Đó là địa ngục”. Viên sĩ quan, một người rất nhạy bén, đã ngay lập tức hiểu ra điều đó rằng anh ta mới tạo cho chính mình một địa ngục; anh ta đang bị đắm sâu trong địa ngục của chính mình. Nó thật đen tối và nóng nảy, đầy thù hận, giận dữ và phẫn uất đến nỗi anh ta suýt giết chết nhà thông thái kia. Nước mắt lưng tròng, anh ta khóc và chắp hai tay lại và đúng lúc này thì nhà thông thái đã bảo anh: “Đó là thiên đàng”.

Không có địa ngục hay thiên đàng nào cả ngoài cách cư xử của chúng ta đối với vạn vật. Địa ngục chỉ là sự phản kháng lại sự sống. Khi bạn nói “Không” với tình trạng mà bạn đang hiện có, nó tương tự như bạn đang sống trong địa ngục. Cũng giống như khi bạn tạo nên một tình huống đạt đến điểm mà bạn tin chắc rằng bạn sẽ rút gươm và chém đầu ai đó, loại phản kháng ấy đối với cuộc sống chính là địa ngục.

Đối với phương pháp thực tập của chúng ta, chúng ta không cho rằng: “Địa ngục thì xấu còn thiên đàng thì tốt” hay “Hãy thoát khỏi địa ngục và đi tìm thiên đàng”, mà chúng ta chỉ tự khuyến khích mình để phát triển một con tim cởi mở, một khối óc cởi mở đối với thiên đàng cũng như địa ngục, cởi mở đối với tất cả. Vì sao? Vì chỉ khi đó chúng ta mới nhận thấy rằng bất cứ điều gì xảy đến thì chúng ta vẫn luôn đứng giữa thế giới, đứng giữa vòng tròn thiêng liêng, và bất cứ cái gì tiến vào vòng tròn ấy, tồn tại cùng chúng ta ở đó đều dạy cho chúng ta những gì chúng ta cần biết.

Việc làm của chúng ta là hãy tỉnh thức để làm cho những gì tiến vào vòng tròn ấy luôn làm bạn tỉnh thức hơn là làm bạn say ngủ. Cách duy nhất để làm điều này là bạn hãy cởi mở, hiếu kỳ và phát triển một số ý niệm về sự thông cảm đối với những gì đang xảy ra, để biết được bản chất thật của nó và để nó dạy cho bạn những gì mà bạn cần biết. Nó sẽ bám riết theo bạn cho đến khi bạn học bài học đó với bất kỳ mức độ nào. Bạn có thể lìa bỏ cuộc sống hôn nhân, cũng có thể bỏ việc làm, và bạn cũng có thể đi đến những nơi mà người ta đang ca ngợi bạn. Bạn có thể vận dụng thế giới xung quanh để làm cho nó êm đềm hơn, nhưng những con quỉ già nua xấu xí của cuộc sống sẽ luôn rình rập cho đến khi bạn học được bài học mà chúng dạy cho bạn. Rồi những con quỉ này sẽ tỏ ra thân thiện, trở thành những người bạn đồng hành trên đường đời của bạn.

Vì vậy mà tại sao sáng hôm nay, mặc dầu rất đói và mệt, tôi cũng rất hạnh phúc. Và tôi thành kính bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Trungpa Rinpoche về điều đó.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]