Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Vô thường

17/11/201017:20(Xem: 7603)
11. Vô thường

VÔ THƯỜNG

Người đời khiđã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhàNhư Lai, vì đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh phápNhư Lai là hào quang chân lý, giúp cho chúng sanh phân địnhđược đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu là giácngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanhphá tan màn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầmđau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú có dạy:
"Vì sợ hãi bất an mà đếnquy y thần núi, quy y thần cây, quy y miếu thờ thổ thần nhưngđó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy ytối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Tráilại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính,hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biếtkhổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não;đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy ynhư vậy, giải thoát hết đau khổ".
Vì không nhận chân đúng lời Phậtdạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng mà khởità kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã,không thanh tịnh chấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc,nên bị luân hồi và đau khổ triền miên.

Tất cả mọi sự vật trong thếgian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luôn luônsanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giớikhông một vật nào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứngyên một chỗ; tất cả đều vô thường, không những vô thườngtrong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từngsát-na sanh diệt.

Ðối với con người cũng vậy,hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đã thấybạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấynếp nhăn nheo.

Vũ trụ, sơn hà, đại địa, dùrất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố, nhưngthật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém.Hòn núi kia khi chúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúngta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng ta tưởng hòn núi đó là thường;cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũng tưởnglầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trongvòng điên đảo, đem cái tâm tham, sân, si để giành giựtlấy những gì chúng ta cho là quý, là thường, là chân thật,nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúccòn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị,từng lời ăn tiếng nói, từng bước đi, từng cử chỉ...Ðến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất, nước,gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,thức) cấu tạo nên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắmmắt lìa đời, không biết bao nhiêu lần biến chuyển đổithay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổitrong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thân thể của mọi người đềuvô thường như thế - Ðôi lúc chúng ta cũng biết như thế,nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tạimãi mãi, tại vì lòng tham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta"là quý hơn tất cả mọi người, chỉ có "ta" mới đáng đượctrọng vọng, khen ngợi, còn người khác thì không nên trọngvọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganhtỵ, tham lam của chúng ta mà ra.

Vả lại trong ta có những lúc tham,lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từ bi, hỷ xả,tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúctham là ta và lúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷxả cũng là ta; thế thì, chính trong một bản thân ta hóa racó không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cái tađó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đóthật là ta; khi ta giận, cái giận đó thật là ta, hay khi takiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tật đố đó là ta? Nếunói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờthay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thìkiêu mạn tật đố không bao giờ thay đổi được! Nhưng không,dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành, phá trừkiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổiđược. Dù tham lam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũngcó thể chuyển đổi được lòng tham lam ra lòng bố thí.

Rõ ràng, tâm của chúng ta luôn luônthay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổi không ngừng,không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tựnghĩ ta đây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi.Bởi vì trong lúc ta nói ta đây, thì chính ảnh tượng mà tatưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta giờnày không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mởmiệng nhắc đến cái ta thì cái ta đó đã bay đi mất. Thếmà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng: "Ta đây, ta quýhơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng,khen ngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưngngược lại ta cũng không muốn tôn trọng và khen ngợi ai cả".Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹp hòi như vậyđó.

Cho nên, chúng sanh đau khổ là vìvô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật là ta. Ai biếtnhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán"như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứanhững đồ bất tịnh, nếu bỏ lớp da ngoài thì ai cũng dơbẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bào thai, vàkhi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trangđiểm bao nhiêu cũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đếnkhi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bất tịnh. Ðối vớicái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta khôngnhận thấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nênnâng niu, chiều chuộng, trau chuốt nó quá đáng. Vì mù quángđối với thân vô thường, lại cho là thường nên con ngườiluôn luôn đau khổ vì nó.

Ngày xưa có nàng Liên Hoa Sắc, khinghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thân thểbất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thìcô ta liền phát tâm muốn đi tu. Nhưng trên bước đườngđi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sông rửa mặt, nhìnthấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩthầm: "Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Côbèn quay trở lại. Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tạisao trước kia chị phát tâm dõng mãnh, muốn đến đức Phậtđể cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chítrở lui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹpquá như thế này mà đi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậychị đẹp như thế nào?" Cô ta trả lời: "Tôi soi mặt dướinước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó, hếtsức là đẹp".

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấyrằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phản chiếu lạilòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắcđã đẹp, và đôi với loài cá dưới nước khi thấy bóngcô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấy cái bóng mình dướinước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờnó đang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biếtkhông hay!

Cho nên trong kinh Xà Dụ, đức Phậtdạy:

"Này các Tỷ-kheo, sắc làthường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gìvô thường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậynày các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, hãy từbỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi."
Trong bốn sự thật mà đức Phậtdạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha). Ngài nói cuộc đờidù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc khôngthoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biếtbao nhiêu cái khổ trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ.Ðó là cái khổ thường tình ai cũng nhận thấy, cái khổtự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không aitránh khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã khôngcất ba tiếng khóc oa oa oa khi mới lọt lòng. Nếu một ngườibịnh không khổ thì họ đã không rên xiết. Người già khôngkhổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một ngườichết không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanhkhổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là một sự thật hiểnnhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đócòn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, nhữngngười mình thích, những đồ vật mình ham muốn tưởng rằngđó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền vớimình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vìluật vô thường, những thứ đó nó rời khỏi tầm tay, khôngcách gì cầm giữ lại được. Ðó chính là ái biệt ly khổ.

Ðối với những người, nhữngvật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránhđược; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt.Trên một con đường, ai cũng muốn đi trên con đường sạchsẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đi trên con đườnglầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bướcđâu vướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Ðối vớisự vật bên ngoài đã vậy, còn đối với người xung quanh,có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, ta khôngưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và khôngưa đó cũng tạo nên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ,cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét của nào trời trao của ấy".Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khi đã oánnhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại mộtgóc. Gặp một người oán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoàiđến nỗi hết muốn gặp mà cũng không sao tránh được. Vũtrụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗita tưởng nó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Ðólà cảnh oán tắng hội khổ. Cảnh này nếu nằm trong gia đình,trong thân tộc, trong bản thân của mỗi người thì lại càngkhổ hơn nữa.

Chúng sanh luôn luôn nuôi dưỡnglòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họchưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một ngườithiếu thốn, họ tìm đủ mọi cách để ôm trọn thế giannày. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắn ngủi,một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãnlòng tham của họ, vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vìham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu, gọi là cầubất đắc khổ.

Dẫu có người cho rằng đời còncó nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coi hát,bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làmquan cũng vui. Ðức Phật không phủ nhận điều đó, nhưngNgài nói: Cái vui đó là cái vui mong manh trong đau khổ, cáivui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổđau càng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bể khổ mênh mông nướcngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyềnchơi,

Thuyền ai ngược gió ai xuôigió,

Ngẫm lại cùng trong bể khổthôi".
Ngược gió hay xuôi gió, chiếc thuyềncũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên trên biểnđược. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luânnày là cái vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cáivui giải thoát. Do thế, đức Phật nói đời là đau khổ,mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theo đời,không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đóphải nhắm mắt tắt thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổđau!

Nếu biết đem toàn tâm lực an trútrong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đức Phật:tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thânthể là bất tịnh, mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù làthọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòng tương đối.Ðã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệttất nhiên lòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ.Ðức Phật vì đại sự nhân duyên đó mà ra đời, để chuyểnmê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành của người tuPhật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắtthế gian tới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theonghiệp, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe". Con vật kéoxe đi vào trong con đường tối tăm mù mịt thì bánh xe cũngphải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự nhưthế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốtthì làm cho con người tốt, nghiệp xấu thì làm cho con ngườixấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con người cao thượng,và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tấtcả đều do nghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu,cho nên khi sanh ra, khi chết đi, ta cũng chỉ một mình đi theonghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không ai thay thế tađể đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệpcủa ta mà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theohình. Những người tạo nghiệp lành thì có những ngườibạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữ thì cónhững kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lànhthì như mang bình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệpác thì như mang một bồ rắn độc bên mình, luôn luôn nơmnớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người làdo nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉbay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay đượckhỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đại hạnh dứt sạchnghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (PhápCú 175).

Bay khỏi thế gian này tức giảithoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyển nghiệp.Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luânra giải thoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanhra cái nghiệp của chư Phật, Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệpđược rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thành một tòalâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh đượcan vui, giải thoát...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 15012)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
08/11/2021(Xem: 10853)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
07/11/2021(Xem: 4418)
Phần này bàn về cách dùng đã, đã đã, đã tật và làm đã, đã làm vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Ngoài các bản Nôm của LM Maiorica ghi ở đoạn sau, tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
04/11/2021(Xem: 7266)
Sau đây là bản Việt dịch bài giảng pháp của Đại Sư Mahasi Sayadaw (1904-1982) trước các thiền gia trong buổi lễ khai thị ở trung tâm thiền tập Mahasi Meditation Center, Rangoon, Miến Điện. Bài này được dịch từ tiếng Miến sang Anh ngữ bởi Unyi Nyi, và sửa chữa lại năm 1997 bởi Đại Sư Pesala.
29/10/2021(Xem: 3636)
Cựu Ngoại trưởng Mỹ, Phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ, Hillary Rodham Clinton cho biết bà thường thực tập thiền định vào các khoảng thời gian giải lao trong suốt phiên điều trần ứng viên Tổng thống kéo dài 10 giờ liền.
16/10/2021(Xem: 6898)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của quí vị chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 14 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm - Bồ Đề Đạo Tràng & vùng Kê Túc Sơn tiểu bang Bihar India. Đây là Public Well Hand-pump nên cả làng có thể xài chung, người dân nghèo bớt đi rất nhiều nỗi nhọc nhằn trong mùa Hạ vì phải đi lấy nước ngoài sông xa. Kính mời quí vị xem qua một số hình ảnh tường trình. (09 Oct 2021)
10/10/2021(Xem: 8920)
Hơn hai năm qua, từ khi phát hiện mình bị cao huyết áp (Hypertension ), tôi thường xuyên đến bệnh viện tái khám và nhận thuốc theo định kỳ của bác sĩ đều trị. Nơi đó là bệnh viện địa phương theo tuyến Quận đã đăng ký trong thẻ Bảo Hiểm Y Tế.
09/10/2021(Xem: 5350)
Trong cuộc sống con người chúng ta thường có nhiều hơn nỗi sợ tồn tại cùng một lúc: sợ thay đổi, sợ thất bại, sợ sai lầm,sợ ma, sợ tình người vô cảm, sợ bị từ chối,… Có thể nói ...sợ hãi là một trong những trạng thái tinh thần tiêu cực gắn với nét tâm lý hoang mang, lo sợ của con người. Trạng thái này xuất hiện như một phản xạ tự nhiên khi chúng ta nhận ra mối nguy hại ảnh hưởng tiêu cực và đe dọa, gây ra sự nguy hiểm. Khác với sự lo lắng thông thường, nỗi sợ hãi thường khiến con người không giữ được bình tĩnh, run sợ không dám đối diện và vượt qua. Có những nỗi sợ hãi do tác động từ yếu tố khách quan bên ngoài, tuy nhiên cũng có những nỗi sợ vô hình in sâu trong tâm lý, tiềm thức của con người, chỉ cần một tác động nhỏ của ngoại lực, sự sợ hãi sẽ bộc phát và gây ảnh hưởng xấu đến cảm xúc, hành vi của con người. Nỗi sợ thường xuất phát từ những áp lực ràng buộc con người
07/10/2021(Xem: 7769)
Mặc dù tình hình Dịch Covid tại Ấn Độ đã lắng dịu khá nhiều so với thời điểm nguy hiểm cách đây 3 tháng trước nhưng sự vân hành của nền kinh tế quốc gia vẫn còn đang tắc nghẽn, trì trệ do ảnh hưởng chung của nạn dịch toàn cầu. Trong tâm tình Hộ trì Tăng Bảo, san sẻ với chư Tăng tu hành nơi xứ Phật trong lúc còn nhiều khó khăn, vào sáng Chủ Nhật 03 Oct 2021 vừa qua chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường chư Tăng thuộc các truyền thống Phật giáo tại Bangladesh Monastery thuộc khu vực Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya India với sự bảo trợ của chư tôn đức Ni và chư Phật tử 4 phương...
07/10/2021(Xem: 6044)
Dù tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, không chịu tìm hiểu xem Đức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, tìm hiểu xem đâu là chánh pháp, điều gì là Chánh kiến thì khổ đau vẫn hoàn đau khổ, theo đạo Phật như thế thì không lợi lạc gì bao nhiêu và.. có khác chi bao người không biết đến Phật Pháp?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]