Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Thái độ cần có khi đọc Kinh Phật

17/11/201017:10(Xem: 6534)
7. Thái độ cần có khi đọc Kinh Phật

THÁÈỘ CẦN CÓ KHI ÐỌC KINH PHẬT

Sự phân chia bộphái Ðại Tiểu thừa nếu có lợi về mặt phát huy đạolý đến chỗ có hệ thống tinh vi thì cũng đã gây ra khôngít sự câu nệ sai lầm làm trở ngại, thiệt thòi cho mộtsố người tham học toàn bộ kinh giáo Phật đà. Thật vậy,có những người chỉ quan tâm đọc kinh này mà lơ là vớikinh kia vì cho là Tiểu thừa, hay có người chỉ quan tâm đọckinh kia mà hờ hững với kinh này vì cho là Ðại thừa. Nhưngsự thật nếu đứng ra ngoài thiên kiến đã gây nên bởicăn tính, địa phương, thời đại, tập truyền đó, thì aicũng nhận thái độ trên là thái độ chấp nê không lưu hoạt,tưởng làm như thế là hiểu đúng Phật pháp, nắm đượcý Phật, không ngờ làm như thế sẽ không hiểu trọn Phậtpháp, không nắm được ý Phật, vì như chúng ta đã hiểuPhật pháp là Phật pháp, Phật pháp không có đại tiểu. Phậtpháp nhất vị.

Trong thiên kinh vạn quyển ở đâulại thiếu những nguyên lý Vô thường, Vô ngã, Giải thoát,Niết-bàn, ở đâu lại thiếu Tứ đế, Thập nhị nhân duyên,Bát chánh đạo...? Nếu gạt bỏ những nguyên lý ấy đểchỉ chấp nhận một điều là kinh này kinh kia có lịch sửkết tập chứng minh hay không thì tưởng cũng là một việclàm sai lệch và ép uổng! Nhất là ở những thời đại xưa,người tu hành chú trọng đến giáo lý, đến sự tu chứnghơn là chú trọng lịch sử. Vì quan niệm lịch sử là lịchsử, lịch sử chỉ là xác chết mà giáo lý mới là phầnlinh hoạt, là tinh thần sống động biến hóa nẩy nở luôn.Giáo lý mới giúp cho con người giác ngộ.

Sau khi nghe tụng kinh Kim cang, ngàiLục tổ Huệ Năng đã chứng ngộ và nói một câu rất siêuviệt: "con người có nam bắc, chứ Phật tánh không bắc nam",như thế là giác ngộ, nhờ giáo lý. Với câu nói đó nếuđược đem áp dụng vào việc nghiên cứu kinh điển thì tựnhiên chúng ta biết rõ điều gì đáng thủ, điều gì đángxả, để đi sâu vào tinh thần chung của Phật giáo mà cáiquan niệm Ðại thừa Tiểu thừa không làm cách ngại được.

Cái tinh thần chung của Phật ấylà gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biếnđổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trongcảnh giải thoát Niết-bàn.Vậy bất cứ là kinh nào trongTam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưngnếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàntrong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạtmà cố công tham cứu và học hỏi, không vì cớ kinh này nóiNiết-bàn với các tính đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, cònkinh kia nói Niết-bàn mà không kèm theo các đức tính đó rồiphê phán kinh này là đại, kinh kia là tiểu. Không, Niết-bàntự nó đã là cứu đích giải thoát an lạc, vô ngại tuyệtđối, dù có cắt nghĩa Niết-bàn theo mặt tiêu cực hay tíchcực Niết-bàn cũng không vì đó mà giảm giá trị không cònlà mục đích của đạo Phật, của người tu Phật, và đứcPhật đã không khuyên chúng ta phải tinh tiến để đạt Niết-bàn.

Cái tinh thần khoáng đạt cần thiếttrên sẽ giúp cho chúng ta tham học kinh điển được nhiềulợi ích, chúng ta sẽ đọc từ kinh này đến kinh khác màkhông có gì là vướng ngại, thắc mắc.

Bây giờ đến lượt chúng ta đọckinh A Hàm. Ðây là bộ kinh được xem phổ cập sớm nhấttrong lịch sử truyền giáo của Ấn Ðộ và hiện nay vẫnthịnh hành tại các nước Phật giáo mà Tăng già sống theothể chế khất thực. Ở các nước Trung Hoa, Nhật Bản, ViệtNam v.v... thường gọi là các nước theo Phật giáo Ðại thừa,thì kinh này ít được phổ cập, nhưng những ai muốn hiểutrọn tinh thần Phật giáo đã không quên những giáo lý thâmtrầm được gói ghép trong các lời lẽ giản dị mà A Hàmlà kinh trọng yếu nhất có tính cách đó.

Nếu không chỉ vì tìm hiểu triếtlý siêu huyền, lý luận xa xôi, thì đọc A Hàm ai mà khôngcảm kích trước những lời dạy nồng hậu thuần khiết vàcách thức giáo hóa của Phật đối với đương thời. Ðây,chúng ta thử đọc một đoạn Phật thuật lại đại nguyệnđộ sanh của Ngài:

"Này các Tỷ-kheo! Ta nhớxưa kia đã không biết bao nhiêu lần, Ta thường qua lại, nóinăng với hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, cư sĩ, chư thiên...Nhờ định lực và tiên tiến mà nơi nào ta hiện đến, họcó sắc đẹp thì sắc Ta đẹp hơn, họ có tiếng hay thì tiếngTa hay hơn, họ từ bỏ Ta mà lui, Ta không từ bỏ họ, điềuhọ nói được Ta cũng nói được, điều họ không thể nóiđược, Ta cũng nói được. Sau khi đã thuyết pháp dạy điềuích lợi, vui mừng cho họ, Ta ẩn đi chỗ khác, mà họ chẳngbiết Ta là trời hay là người".
Xem đó thì Phật đã hóa độ chúngsanh trong nhiều kiếp trước và kiếp sau, chớ không phảichỉ một đời của đức Thích Ca tại cõi Ta bà này. Và biếtđâu chúng ta đã không một lần nhờ duyên lành nghe Ngài thuyếtpháp mà vì u mê không nhận ra Ngài là ai, để rồi ngày naycứ mãi tìm Phật.

Tiếp đến đoạn này lại thấyphảng phất một đạo lý khác, đạo lý: "Hết thảy chúngsanh đều có tính Phật" mà chúng ta thường gặp ở các kinh:

"Ta dùng Phật nhãn xem thấythế giới chúng sanh, có kẻ nghiệp chướng sâu dầy, có kẻnghiệp chướng cạn mỏng, có kẻ căn tánh lanh lợi, có kẻcăn tính chậm lụt, có kẻ dễ khai hóa, có kẻ khó khai hóa.Kẻ dễ khái hóa vì biết sợ tội lỗi kiếp sau nên gắnglo bỏ điều ác làm điều lành. Họ như các hoa sen xanh vàngđỏ trắng, có cái lên khỏi bùn mà chưa đến mặt nước,có cái lên ngang mặt nước mà chưa nở, nhưng cái nào cũngkhông bị nước dính bẩn và đều nở ra được cả. Cácloại chúng sanh cũng như thế".
Thật là một lời dạy đầy khíchlệ tinh thần tiến giác, nâng cao giá trị con người biếtbao. Nếu càng đọc nhiều, chúng ta càng nhận thấy qua lờidạy bình dị như thế, cái tinh thần từ bi, bình đẳng, thựctế, bất mê tín... được bộc lộ đầy đủ, cũng như lốiứng cơ thuyết pháp rất khéo léo của Phật. đối với căncơ tu tại gia thì chỉ dạy pháp tại gia, đối với căn cơtu xuất gia mới dạy pháp xuất gia. Không mang thuốc này trịcho bệnh kia để phải gây thiệt thòi cho người bệnh.

Ðể ý thức đầy đủ sự íchlợi khi đọc kinh A Hàm, ở đây tôi nhắc lại mấy điểmcủa nhà học giả Lương Khải Siêu đã ghi:

1. A Hàm là bộ kinh đượcthành lập sớm nhất với hình thức kiết tập công cộng(khác với những kinh kiết tập ở địa phương), do đó, tuykhông dám nói nó ghi chưa trọn lời Phật dạy nhưng chắcchắn nó là bộ phận trọng yếu đã ghi lời Phật dạy.

2. Ðại bộ phận kinh Phật là tácphẩm văn học. A Hàm tuy không thể sánh kịp các kinh khácvề mặt này song chắc chắn nó gần với lý thuyết chân thậthơn. Do đó, không dám nói mỗi câu mỗi chữ trong A Hàm toànđúng hẳn lời Phật dạy lúc tại thế, (bút tích ngôn giáonào khỏi nạn tam sao thất bổn) nhưng hẳn nó hàm chứa đượcđa phần lời Phật dạy hơn.

3. A Hàm hẳn có cái thể tài củamột tập sách "Ngôn-hạnh-lực", tính chất giống như sáchluận ngữ của Khổng giáo. Nên nếu ai muốn thể nghiệm nhâncách cao thượng của đức Thích Tôn mà không đọc A Hàm thìkhông làm sao đạt được.

4. Các giáo lý căn bản của Phậtgiáo như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn giai không,Nghiệp cảm luân hồi, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo v.v...đều có thuyết minh ở A Hàm. Nếu đối những giáo lý nàykhông có trước một quan niệm minh xác thì rất dễ lạc lốitrong khi nghiên cứu kinh luận Ðại thừa. Ðọc A Hàm chúngta càng hiểu thêm những giáo lý này Phật đã dạy trong cáctrường hợp nào nữa.

5. A Hàm chẳng những không xung độtvới kinh Ðại thừa, trái lại còn chứa nhiều ý nghĩa cănbản của Ðại thừa.

6. A Hàm thuật đến tình hình xãhội Ấn Ðộ thời bấy giờ rất nhiều. Có đọc nó chúngta mới cảm thông nỗi khổ tâm ứng cơ khai hóa của Phậttrong một hoàn cảnh khó khăn biết chừng nào!

Tuy nhiên, bên bao nhiêu cái hay, cáiquí đó không khỏi kèm theo điều đáng tiếc, đã làm chokinh A Hàm không phổ cập sâu rộng ở các nước theo Phậtgiáo Ðại thừa, không được nhiều người ham đọc! Và đâylại mấy lý do khác chúng ta phải đồng ý với ông LươngKhải Siêu:
1. Quyển điệt quá nhiều.Nói kinh A Hàm tức là nói 4 bộ A Hàm là Tăng Nhất A Hàm,Trung A Hàm, Trường A Hàm và Tạp A Hàm (Anguttara Agama, MajjhimaAgama, Digha Agama, Samyutta Agama), theo tạng Pali là Tăng chi bộkinh, Trung bộ kinh, Trường bộ kinh, Tương ưng bộ kinh vàTiểu bộ kinh. Mỗi bộ A Hàm ấy có tính cách là một tòngthư góp nhiều kinh (bài thuyết pháp) lại tạo thành, trongđó kinh trước kinh sau không liên lạc chặt chẽ như ở cácbộ khác. Có bộ gồm 30 kinh như Trường A Hàm, gồm 222 kinhnhư Trung A Hàm, gồm 72 kinh như Tăng nhất A Hàm, lại có bộgồm tới 1.200, 1.300 kinh như Tạp A Hàm.

2. Chương thiên trùng lặp. Có nhữngkinh ở bộ này có ở 3 bộ kia cũng có. Hoặc một kinh màcó tới 3, 4 lần trùng trong một bộ, tuy văn cú hơi khác đôichút.

3. Từ ngữ trùng lặp. Nhiều khichỉ một chuyện, một câu nói mà nhắc đi nhắc lại nhiềulần từ khi mới suy nghĩ, rồi phát ra ở miệng người hỏi,nhắc lại ở miệng người trả lời... thật là phiền phức!Như tuồng ngữ pháp Ấn Ðộ thời xưa là thế? Nên hễ đọcsơ ý một chút là khó nhận ra câu nào chính, câu nào phụ.

4. Văn dịch chữ Hán do các cao tăngẤn Ðộ, Tây Vức dịch quá xưa, lủng củng, các thuật ngữdùng không xác đáng thành rất khó lãnh hội cho những ai khôngkiên chí.

Tuy nhiên ở một phương diện khác,chúng ta hiểu rằng Phật khai hóa cho chúng sanh tỉnh thứcgiác ngộ chứ không cốt văn chương, nên một câu nói đượcnói đi lặp lại nhiều lần, nhắc đi nhắc lại nhiều nơi,để cho chúng sanh nghe, nhớ, thấm vào lòng, hầu chuyển cáimê thành cái ngộ mới thôi.

Bấy nhiêu ý kiến thô sơ, tôi xinnêu ra để hiến quí vị sẵn có lòng hoan hỷ muốn học hỏi,nghiên cứu toàn diện giáo lý Phật đà mà không bỏ qua cáckinh sách chính yếu và tiên khởi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2605)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2322)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5973)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3870)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3855)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2526)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2519)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5872)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3433)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2349)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567