Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vấn đáp cơ bản về sự buông bỏ, bất bạo động và lòng bi mẫn

08/10/201216:12(Xem: 9411)
Vấn đáp cơ bản về sự buông bỏ, bất bạo động và lòng bi mẫn

VẤN ĐÁP CƠ BẢN VỀ

SỰ BUÔNG BỎ, BẤT BẠO ĐỘNG VÀ LÒNG BI MẪN
Alexander Berzin
Singapore 10 tháng Tám, 1988
Trích đoạn đã được duyệt lại từ
Berzin, Alexander and Chodron, Thubten.
Glimpse of Reality.
Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.

buongbo-batbaodong-berzinHỏi:Sự buông bỏ (detachment) có nghĩa là gì?

Đáp: Chữ 'buông bỏ' trong đạo Phật hơi khác với nghĩa thông thường của nó trong Anh ngữ. Trong Phật giáo, ‘buông bỏ’ được gắn liền với tâm xả ly (renunciation). Chữ xả lytrong Anh ngữ cũng bị hiểu lầm, vì nó ngụ ý là ta phải từ bỏ tất cả để vào sống trong hang động. Mặc dầu có những trường hợp như Ngài Milarepa đã rời bỏ tất cả và sống trong hang động, nhưng có một từ ngữ khác để nói về việc này, chứ không phải là danh từ được dịch là “xả ly” hay “ buông bỏ”. Danh từ “xả ly” thật sự có nghĩa là “quyết tâm để đạt được tự do”. Chúng ta đã nhất quyết rằng, “Ta phải thoát ra khỏi những vấn đề và khó khăn của mình. Ta sẽ nhất tâm hướng về mục tiêu này.” Chúng ta muốn từ bỏ tất cả những trò chơi ngã chấp, vì ta đã cương quyết thoát ra khỏi mọi vấn đề do ngã chấp gây ra. Điều này không có nghĩa là ta phải bỏ nhà cửa, tiện nghi, hay những gì ta thích thú. Đúng hơn là ta cố gắng chấm dứt tất cả những vấn đề liên quan đến các thứ này. Điều này đưa ta đến sự buông bỏ.

Buông bỏ không có nghĩa là ta không thể thưởng thức một điều gì, hay không thể ở gần một ai. Đúng hơn, buông bỏ ám chỉ sự kiện là khi ta bám chặt vào những gì mình sở hữu, nó sẽ tạo cho ta nhiều vấn đề. Ta sẽ bị lệ thuộc vào vật đó hay người đó và nghĩ rằng, “Nếu tôi đánh mất hoặc không có được những gì tôi muốn, thì tôi sẽ đau khổ.” Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao, không có nghĩa là đã đến ngày tận thế.” Không có sự ràng buộc và quyến luyến ở đây.

Trong ngành tâm lý học hiện đại, chữ luyến ái (attachment)có một ý nghĩa tích cực trong vài trường hợp. Đó là tình cảm gắn bó giữa một đứa bé với cha mẹ nó. Các nhà tâm lý học cho rằng lúc ban đầu, nếu đứa bé không có sự quyến luyến với cha mẹ nó, thì nó sẽ khó mà phát triển được. Danh từ ‘luyến ái’ trong đạo Phật rất khó giải thích bằng Anh ngữ, vì nó có một ý nghĩa hoàn toàn riêng biệt. Khi giáo lý nhà Phật giảng dạy rằng ta cần phải phát triển tâm buông bỏ, không có nghĩa là ta không muốn phát triển sự gắn bó giữa cha mẹ và con cái. “Buông bỏ” có nghĩa là dẹp bỏ sự bám víu và thèm muốn đối với một người hay một vật nào đó.

Hỏi: Có sự khác biệt nào giữa hành động buông bỏ và hành động đạo đức tích cực không?

Đáp: Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi xin nói thêm là tôi ưa chuộng chữ xây dựnghơn chữ thiện hảo. “Thiện” và ‘bất thiện’ ngụ ý một sự phán xét về đạo đức, điều này không có ý nghĩa như vậy trong đạo Phật. Không có sự phán xét đạo đức, cũng không có thưởng phạt. Chỉ có những hành động xây dựng hay phá hoại thôi. Bắn giết người khác là một điều phá hoại. Đánh đập người thân trong nhà cũng là một sự phá hoại. Ai cũng đồng ý như vậy. Không có sự phán xét đạo đức ở đây. Khi ta tử tế và giúp đỡ người khác, điều đó có tính cách xây dựng hoặc tích cực.

Khi giúp đỡ ai, ta có thể làm vì tâm luyến ái hay buông bỏ. Một ví dụ về động lực luyến ái là khi ta nghĩ “Tôi sẽ giúp bạn vì tôi muốn bạn thương tôi. Tôi muốn có cảm giác là người khác cần tôi.” Ta có thể nói hành động trợ giúp này cũng là một việc tích cực, nhưng dụng tâm không được tốt lắm.

Khi nói về nghiệp, chúng ta có sự phân biệt giữa động cơ và hành động. Ta có thể làm một việc tích cực với một dụng tâm rất xấu. Hành vi tích cực sẽ đưa đến niềm hạnh phúc nào đó, trong khi dụng tâm xấu mang đến sự đau khổ. Hoàn cảnh ngược lại cũng có thể xảy ra: Hành vi tuy là tiêu cực, ví dụ như ta có thể đánh con cái, nhưng với một động lực tích cực, vì ta muốn bảo vệ tánh mạng của nó. Ví dụ như đứa con trai nhỏ của bạn sắp chạy ra đường và nếu bạn nói lời dịu ngọt với nó như, “Con cưng, con đừng chạy ra đường”, thì nó sẽ không nghe lời. Nếu bạn đánh một phát vào mông nó thì nó sẽ hờn dỗi và khóc òa lên, thế thì có một ít hậu quả tiêu cực trong hành động của bạn. Dù sao đi nữa, bạn vẫn có một dụng tâm tốt, và cuối cùng thì kết quả tích cực vẫn lớn hơn kết quả tiêu cực rất nhiều, bởi vì sinh mạng của con trai bạn được an toàn. Hơn nữa, thằng bé sẽ cảm nhận là ta đã lo lắng cho nó.

Điều này cũng đúng đối với hành động có tính cách xây dựng: Nếu nó được thực hiện với tâm buông bỏ thì sẽ luôn luôn tốt hơn, nhưng đôi khi nguời ta có thể hành động vì sự luyến ái.

Hỏi: Có phải nếu ta có lòng bi mẫn nghĩa là ta phải luôn luôn làm người thụ động và chìu theo ý người khác không, hay là đôi khi ta có thể áp dụng các biện pháp mạnh?

Đáp: Có lòng bi mẫn không phải là “bi mẫn một cách ngu xuẩn”, để ai muốn gì thì được nấy. Ta không thể vì bi tâm mà mang rượu cho người nghiền rượu, hay đưa súng cho kẻ sát nhân. Đây nhất định không phải là lòng bi nếu ta hành động như thế để làm vừa lòng họ. Lòng bi mẫn và rộng lượng phải đi đôi với óc phán đoán và trí tuệ.

Đôi khi, chúng ta cần có biện pháp mạnh để răn dạy một đứa bé, hoặc ngăn chận một tai họa khủng khiếp có thể xảy ra. Nếu như hoàn cảnh cho phép, thì ta nên hành động một cách bất bạo động, để ngăn ngừa hoặc cải thiện một tình huống nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu cách đó không có hiệu quả, và ta thấy rằng chỉ có hành vi mạnh mẽ mới chận đứng được sự nguy hiểm ngay lập tức, thì ta sẽ phải hành động, vì nếu không làm như thế thì xem như ta đã không muốn ra tay cứu nguy. Dù sao đi nữa thì ta cũng nên cố gắng không gây nhiều thiệt hại cho người khác.

Trong một lần phỏng vấn, một câu hỏi tương tự đã được đặt ra và Đức Dalai Lama đã cho một ví dụ như sau: Một người đàn muốn bơi qua một dòng sông rất nguy hiểm. Hai người khác đứng gần đó và biết chắc là nếu anh kia bơi qua sông thì sẽ bị chết chìm. Một người chỉ điềm tĩnh đứng nhìn và không làm gì cả, vì nghĩ rằng mình phải giữ tư cách bất bạo động, nghĩa là không nên xen vào chuyện của người khác. Còn người kia thì lên tiếng kêu người đàn ông và khuyên ông ta đừng nhảy xuống sông, vì dòng nước rất nguy hiểm. Người đàn ông trả lời rằng, “Tôi không cần biết. Tôi sẽ lội qua sông.” Hai người cãi vã một hồi lâu và cuối cùng, vì muốn cứu người đàn ông khỏi chết, người này đánh ông ta bất tỉnh. Trong trường hợp này, người thứ nhất sẵn lòng ngồi yên nhìn người đàn ông kia lội qua sông để chết đuối là người đã phạm tội bạo động. Người bất bạo động là người đã cố ngăn cản, không để cho người đàn ông kia bị chết đuối, dù họ đã phải dùng một biện pháp mạnh để cứu người.

(Viện Lưu Trữ Phật Pháp Berzin)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6089)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6285)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3983)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8323)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10833)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7918)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]