Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm nhận về nhân và quả

09/10/201203:08(Xem: 6453)
Cảm nhận về nhân và quả
nhan qua

Cảm nhận về nhân và quả
Huỳnh Ngọc Chiến


Mỗi buổi sáng, mở báo đọc, không ai là không kinh hãi về những hiện tượng bạo lực diễn ra hầu như hàng ngày. Người ta dễ dàng giết nhau vì những nguyên nhân không đâu: một cái liếc mắt, một vụ va chạm nhỏ ngoài đường, sau cơn nhậu quá say… Con giết cha, anh giết em, vợ giết chồng, người tình giết người tình, tớ giết chủ. 

Người ta dễ dàng giết cả những người thân yêu, và thản nhiên tra tấn trẻ em bằng những thủ đoạn rùng rợn như thời trung cổ. Đến trẻ em, trong màu áo học trò, cũng sẵn sàng đâm chém nhau. Bạo lực và hận thù hầu như đã tràn lan đến mọi ngóc ngách của cuộc sống. 
 
Sau lũy tre xanh, cuộc sống vốn bao đời thanh bình êm ả, cũng bắt đầu nhuốm màu bạo lực. Người ta luôn sẵn sàng lăn xả vào nhau một cách dễ dàng, như hai con dã thú trong trạng thái bị kích động tột độ, vì những chuyện không đâu, và ở bất cứ nơi nào. 

Lưỡi dao và thú tính đã dần lấn át tiếng nói của lương tri và nếp cư xử văn hóa truyền thống của ông cha. Người ta dễ dàng giết người, và lạnh lùng thụ án. Mà nạn nhân lắm khi là những người hoàn toàn xa lạ không chút hận thù với kẻ giết người. Có một trường hợp bạn bè giết nhau vì ai cũng sĩ diện, muốn giành được trả tiền sau một chầu nhậu! Những tai nạn đau thương trong giao thông và lao động, những thảm họa tang tóc đến với ngư dân trên rừng dưới biển suốt bao năm dài dường như cũng chẳng còn làm một ai động tâm. 

Xã hội chúng ta đang tiến gần đến bờ vực của thảm họa đạo lý, mà có lẽ phải có một ngọn bút thiên tài tầm cỡ Dostoievski mới có thể phân tích đầy đủ về quái trạng tâm lý này. Xã hội hiện nay gần như luôn sống trong một tâm trạng bất an, sợ hãi vì đời sống tinh thần và đời sống tâm linh đã bị tổn thương trầm trọng, và do đó rất dễ dàng bị kích động. Người ta đổ lỗi cho xã hội, cho gia đình, cho cá nhân, cho đoàn thể mà không hiểu rằng xã hội chúng ta đang gánh chịu những cái quả nặng nề từ cái nhân mà chúng ta đã gieo ra từ trước. 

Nguyên nhân đâu phải là cái gì nằm trước mắt mà thường bắt nguồn từ gốc rễ sâu xa, rồi mới cảm nhiễm dần dần vào đời sống văn hóa xã hội. Như căn bệnh ung thư tàn phá dần dần cơ thể. Ta đang gặt những gì đã gieo, đúng theo quy luật nhân quả của Phật giáo. 
 
Văn hóa, nhìn ở một góc độ, chỉ là quá trình “gieo và gặt”. Về mặt thuật ngữ khoa học, từ “Văn hóa” được bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus” mà nghĩa gốc là “gieo trồng”. Ta gieo gì thì sẽ gặt nấy. Đó là văn hóa. Chúng ta không thể mong đợi một mùa lúa ngát bông khi ta gieo xuống luống cày toàn sỏi đá.

Quẻ Khôn trong kinh Dịch nói: Nhà chứa điều thiện tất có dư niềm vui. Nhà chứa điều bất thiện, tất có dư tai ương. Bề tôi giết vua, con giết cha, không phải vì duyên cớ trong một sớm, một chiều, mà nguyên nhân dần dần dẫn đến, chỉ do không biết sớm vậy). Gieo nhân sẽ gặt quả tương ứng. Quả theo nhân như bóng với hình. Chỉ sớm hoặc muộn mà thôi.

Sau những ngày Tết, câu chuyện cướp ấn đền Trần nổi bật lên như một “hiện tượng văn hóa” quái dị trong xã hội ta. Cảnh tượng hàng hàng lớp lớp người chen chúc xô đẩy để cướp giật nhau một tờ giấy vàng ố, với hy vọng được thăng quan tiến chức để “đổi đời” hoặc “lên đời”, quả là một quái trạng xã hội dường như chưa từng có tự cổ chí kim. 
 
Không ít người lên án đó là một sự kiện thiếu văn hóa, song chúng ta nên hiểu rằng hiện tượng đó chính là một “hệ quả văn hóa” tất yếu của một xã hội mà mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống tinh thần thì quá khô cằn, còn đời sống tâm linh lại hoàn toàn vắng bóng trong suốt một thời gian dài. 

Một bộ phận của xã hội đang từng ngày băng hoại về đời sống tinh thần và tiết tháo, trong cảnh mua quan bán tước, mua bằng bán cấp diễn ra hầu như công khai. Khí phách và tiết tháo của người xưa đã dần bị hủy hoại, khi con người chỉ còn biết tìm cách tiến thân bằng cái đầu gối, bằng cái lưng khom, bằng thói xu nịnh và dối trá. Họ chỉ còn biết tin và dựa dẫm vào thần linh mà không còn đủ sức tin vào năng lực của chính bản thân, bởi một lý do đơn giản là năng lực thực sự đôi khi không còn được coi trọng nữa. 

Chúng ta đã quá vội vàng bước một bước dài từ một thời kỳ tự mãn ấu trĩ bằng cách xóa sạch dấu tích văn hóa tâm linh để khẳng định một cuộc sống mới của thế hệ anh hùng, nên dễ dàng chuyển sang một xã hội đầy mê tín dị đoan nhảm nhí một cách nhanh chóng, do không có điều kiện để tiếp xúc với vẻ đẹp nhân văn thực sự của đời sống tâm linh. Hễ gieo hận thù, bạo lực thì chúng ta phải gặt hái sự hỗn loạn trong xã hội đạo đức suy đồi và mất tất cả niềm tin.

Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ (bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến) chép rằng vào đời Lê ở làng Phù Ủng có một vị quan văn thần là Võ Vinh Tiến. Tuy tuổi còn trẻ nhưng ông đã làm nên khoa hoạn, tay cầm trọng binh đốc trấn ở Cao Bằng. Những người kỳ lão ở trong làng đều ghen ghét, việc gì cũng đè nén không cho dự. Mỗi khi làng có đám có lệ ăn uống, thì mọi người đều thoái thác, không muốn ngồi cùng chiếu với Võ công. 
 
Võ công sai đem một trăm lặng bạc và trâu gạo tạ lỗi. Chúng khước đi không nhận, bắt phải thân về tận nơi. Võ công dắt trâu, đem bạc về, luồn lọt cho được thỏa lòng. Được ít lâu cái hiềm khích cũ đã quên dần, ông mới bàn với dân xoay miếu thần về hướng Bắc, xong đâu đấy, lập đàn nhảy xuống sông mà thề rằng: “Làng này đã coi khinh khoa hoạn thì về sau không nên có nữa”. Từ khi Võ công mất, trong làng không còn người đỗ đạt nữa.

Đọc bài đó, chúng ta không khỏi giật mình về sự ràng buộc của hai chữ quả và nhân. Chúng ta đã khinh thường chất xám, và sau đó lại hối hả lấp lỗ trống kiến thức bằng nạn mua bán bằng cấp; và giờ đây xã hội đang phải đối mặt với sự dối trá và suy nhược về đời sống tinh thần.

Cùng với sự đăng quang của lý trí, con người thế kỷ XX đã say sưa chinh phục, say sưa khai phá, và tàn phá thiên nhiên, say sưa với khát vọng làm chủ nhân ông của cả trần gian lẫn trên thiên giới. Và con đường chinh phục đó đang dẫn con người đến sự kết thúc bá quyền trên sa mạc. Đó là quả và nhân. 
 
Tôi hoàn toàn không tin vào thuyết Thượng đế sáng tạo vũ trụ. Nếu cần phải có Thượng đế để giải quyết vấn đề nguồn gốc vũ trụ, thì ngài chỉ đóng vai trò sáng tạo vũ trụ, rồi sau đó để nó tự tồn tại và vận hành, và có thể sẽ hủy hoại theo luật nhân quả.

Có lẽ không đâu luật nhân quả lại hiện rõ bằng trong Phật pháp. Xã hội chúng ta hiện nay đang cảm nhiễm sự lạnh lùng vô cảm đáng kinh hãi, vì những cái nhân bạo lực mà chúng đã ta gieo quá lâu và quá nhiều trong quá khứ. Chúng đã tàn phá gần như hoàn toàn nền văn hóa đạo lý của ông cha. Tâm hồn con người hiện nay đã nhiễm tham, sân, si trầm trọng. 
 
Quá nhiều tham dục, quá nhiều sân hận và ngu si đã và đang hủy hoại con người. Muốn tạo được sự chuyển hóa trong xã hội thì toàn bộ hệ thống giáo dục phải giúp con người có điều kiện tiếp xúc nhiều và lâu dài với điều thiện, với lòng từ bi bác ái; phải dạy cho con người những bài học yêu thương thay cho những tư tưởng đầy bạo lực hận thù. 
 
Điều đó sẽ giúp con người thật sự trở nên nhân ái đối với đồng loại, như ta đã thấy qua nhiều tấm gương nhường cơm sẻ áo của những đứa bé Nhật Bản trong thảm họa sóng thần vừa qua. Vết thương tinh thần và tâm linh của xã hội chúng ta đã bị tổn thương quá trầm trọng, cần phải điều trị lâu dài. Cần phải gieo nhân lành để được quả tốt.

Sự ổn định xã hội được xây dựng trên sự sợ hãi, thay cho tinh thần vô úy của Phật giáo hay tinh thần “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” của Mạnh Tử, thì chỉ có thể đưa toàn xã hội đến sự bạc nhược tinh thần. 
 
Sự ổn định bạc nhược đó sẽ hủy hoại dần xã hội bằng căn bệnh trầm kha. Mà một xã hội hễ càng sợ hãi, thì khi đối mặt với một sự bất ổn, như thảm họa thiên nhiên, lại càng dễ biến thành hỗn loạn.

Huỳnh Ngọc Chiến
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6093)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6291)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3986)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8326)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10836)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7924)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]