Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nặng tình Vu Lan

30/08/201204:07(Xem: 8626)
Nặng tình Vu Lan
NẶNG TÌNH VU LAN
Thích Tâm Mãn

lavangmuathu2Vu Lan về rồi nhưng sao trong lòng không thấy khởi niệm hân hoan, tôi hỏi lại mình hay còn thiếu gì chăng? Mưa, không! mưa phố núi đã rơi đều suốt tháng ngày cuối hạ, tí tách giọt đều dẫn người lại gần với mùa thu. Lá vàng ư! không hàng liễu trước chùa nay đã úa vàng rơi gần hết, trơ cả cành mềm chịu gió táp mưa sa, cơn gió chợt về xì xào đám sen mùa lá đỏ, xan xát vì héo gầy, rách nát bởi khô khan. Tiếng ve gọi hè gần như đã im bặt, trả lại gió ngàn đong đưa lá vàng xào xạc đón thu sang, thu đã sang, Vu Lan đã về sao cứ thấy lòng nặng trĩu, ngồi một mình với tách trà thu, am vắng, thử hỏi một lần lòng nặng trĩu vì đâu.

Ai không biết Vu Lan là mùa Báo Hiếu, có ai không hiểu là mọi người nên tưởng nhớ đến công ơn hai đấng sanh thành, rồi làm gì đó để bày tỏ lòng mình quan tâm, hiếu thảo, cảm ơn, có người chỉ cần đứng trước mẹ sâu lắng nói một lời Vu Lan: "Mẹ ơi! mẹ biết con thương mẹ lắm không?", lại có người tụng Kinh Vu Lan dùng lời Phật để đáp đền ân đức, lại cũng có người cúng dường tứ sự lên Tăng để đem công đức hồi hướng báo hiếu cha mẹ. Vâng tất cả là Vu Lan của người con hiếu hạnh, cứ mỗi năm về mọi người lại một lần thương.

Vu Lan của người Phật tử tại gia là như vậy, Vu Lan của người xuất trần "Bát cơm xin vạn nhà, thân chơi muôn dặm xa, chỉ vì việc sanh tử, mây trắng hỏi đường qua". Người xuất gia báo hiếu ai đây, ngồi đọc lại những lời xưa Tổ dạy trong Quy Sơn Cảnh Sách: "Người xuất gia đối với cha mẹ thì không cung phụng món ngon vật lạ, đối với thân quyến rời bỏ xa cách không gần... đối với gia tộc không màng đến nghĩa vụ thừa kế, xa làng bỏ xóm, cắt tóc đi tu...". Như vậy thì Vu Lan với người xuất trần không có ý nghĩa gì hay sao?

Không! Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi như trong Quy Sơn Cảnh Sách Tổ dạy: "Người xuất gia phải có tâm chí vượt ra khỏi trời đất, nên cất bước thì hướng tới phương trời cao rộng, từ tâm ý cho đến hình tướng phải đều khác hẳn với người thế tục, là hạt giống lành nối tiếp ngày càng làm rạng rỡ thêm nhà Phật, làm cho chúng ma phải khiếp sợ khuất phục, với tâm niệm báo đáp bốn ân, cứu vớt ba loài". Báo hiếu Vu Lan của người xuất gia là như vậy.

Vu Lan về, lời Phật dạy còn đó, lời Tổ đinh ninh chúng ta đã làm được gì? hay chỉ là như làm cho thêm buồn, như ý Tổ dạy trong sách Quy Sơn: "Sao lại mới bước lên phẩm bậc của giới pháp, mà đã tự thị ta đây là vị Tỳ Kheo. Dùng của cúng dường của Đàn na thí chủ, ăn ở tiêu hao của thường trụ, không biết xét kỹ vì sao mà có của ấy, lại bảo rằng lẽ tự nhiên là người phải hiến cúng. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn chuyện tạp của thế gian...". Nếu là như vậy Vu Lan về thật là vô nghĩa.

Như vậy thì làm sao chúng ta có thể nhận biết được Vu Lan đã về, Vu Lan còn ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta, vì chúng ta đang mải miết say mê trong ảo cảnh, không hiểu tu tập để làm gì như trong Quy Sơn Tổ dạy: "Cứ thừa dịp vui thích, mà không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự khổ đau. Bao kiếp xưa kia, đem thân si mê theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh, thì giờ này chỉ để năm tháng dần qua, không lo tu học, mất mát khôn cùng, thọ hưởng càng nhiều, của thí lợi càng lắm, hết năm này qua năm khác mà không biết nghĩ đến sự rời bỏ, có hiểu đâu chất chứa càng nhiều cũng chỉ là bảo trì thân xác giả huyễn mà thôi...". Nếu một ngày nào đó vô thường vẫy gọi, hỏi lại ta đã làm được gì để báo đáp trọng ân Vu Lan, ân Tam Bảo ơn tín thí đàn na.

Hay cuối cùng rồi chúng ta cũng chỉ là như vậy, không khác gì với ngày mới cắt tóc quy y. Như Tổ Quy Sơn từng chỉ dạy: "Quả là kẻ chưa bao giờ nghe đến sự hành trì và huấn dụ của Phật dạy bảo, nên suốt bao năm cũng chỉ có một chiều hướng, tánh tình vẫn còn như cũ giữ y nguyên. Cung cách chẳng khác gì ngày xưa biếng nhác, ham muốn những điều xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời, hóa thành kẻ không tăng không tục. Thế rồi bất giác lóng cóng đã đến ngày già yếu, gặp việc thì như đối diện với tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời chỉ để hướng dẫn tu hành...".

Nếu là như vậy thật oan uổng cho một kiếp tu hành, lấy gì để Vu Lan về báo đáp thâm ân. Thử hỏi cha mẹ nào nghe con mình tu hành như vậy mà sanh tâm hoan hỷ, Thầy Tổ nào hãnh diện vì có một người học trò tu học kiểu như trên, vậy thì ta lấy chi để báo đáp? sao chúng ta có thể cho phép mình làm những việc vô tâm.

Tổ Quy Sơn dạy: "... ai kia đã là đấng trượng phu thì ta đây cũng có thể làm được như thế, đừng tự khinh thị mình mà lùi bước và khuất phục trước khó khăn...". Nếu ý thức được như vậy, thì có gì mà ta không làm được, khó khăn nào mà ta chẳng vượt qua, và không có thành tựu nào mà ta không thể thành tựu, được như vậy mới thật là vâng lời Tổ dạy: "...là người chẳng phải là bậc thượng trí, không dễ có thể mau vượt lên được, thì nên hãy để tâm trí vào học hành giáo pháp, ôn cho thuộc, tìm kiếm sưu tra kinh điển cho rõ pháp Phật, nghiên cứu tinh tường nghĩa lý, để rồi truyền bá diễn giảng dẫn dắt người sau, báo đáp ơn Phật. Đừng để uổng phí thời gian, lấy công hạnh huân tu trên đây mà hỗ trợ đời mình. Như thế thì động cũng như tĩnh đều có uy nghi, tự mình biến thành bậc "pháp khí" trong hàng Tăng bảo...".

Nếu làm được như vậy, thì đây là món quà Vu Lan hiếu hạnh lớn nhất trong thế gian, còn bằng không thì chẳng khác nào bị Tổ quở trách trong Quy Sơn Cảnh Sách : "...ở trong hàng ngũ của người xuất gia chỉ là vô ích, dần dà phí hết cả một đời mà quả thực không có một chút ích lợi gì hết...". Lắng lòng nghe lời Tổ dạy, tự mình sám hối ăn năn, có trễ nhưng chưa muộn, vì Vu Lan còn về để rồi lại nhận yêu thương.

Ngoài hiên gió đùa càng thêm hiu hắt, lại vài giọt mưa buồn thêm chút vọng Vu Lan, đọc lại những lời Tổ dạy ngày xưa, sao nghe nát cả cõi lòng, bỗng thấy thẹn mình chưa trọn một kiếp tu, mỗi năm thu đến lá vàng, Vu Lan lại về để đón nhận tình thương. Thương cho ta chưa tròn tâm tu học, thương cho cha mẹ già đang ngóng chờ công đức tu hành của con thơ, thương cho thầy tổ ngóng trông những hạt giống lành để trùng hưng Tam Bảo, thương cho Phật Đà hy vọng Chánh pháp sẽ có người truyền thừa xiển dương, tất cả tình thương ngóng trông đều từ đâu? ấy vậy Vu Lan về sao ta lại không hay biết!

Thôi thì chúng ta hãy vì niệm nặng tình yêu thương của Vu Lan phát tâm cố gắng, như Tổ đã dạy: "...bên trong thì siêng tu tập công phu khắc trừ niệm ác, bên ngoài thì hiển bày đức tính hiền hòa, xa lìa trần tục, mong cầu giải thoát", để rồi có thể làm được những gì mà Tổ căn dặn trong Quy Sơn thì không uổng phí luống qua một kiếp tu hành, thành tựu trọn vẹn yêu thương dâng lên cúng dường Vu Lan Thắng Hội: "tu hành mà động cũng như tĩnh đều được an nhiên, như vậy mới thật không uổng phí, mặc một đời khoác áo cà sa, như vậy cũng tức là đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu có thể đời đời không thoái chuyển thì quả vị Phật Đà quyết chẳng còn xa, để rồi là lữ khách tự tại dạo chơi trong ba cõi, đến đi ra vào đều làm khuôn phép cho người sau...".

Báo ân Vu Lan của người xuất gia là như vậy, tình thương Vu Lan xuất trần là như thế, nếu là con Phật, không ai không có ngày tu hành đạt đến tình thương Vu Lan xuất thế, không cha mẹ nào không mong muốn con mình thoát khổ sanh vui, nặng tình mong hoài hậu học xuất ly khổ hải của các bậc Tiên giác Đạo sư, nếu như hiểu được, ngộ được thì Vu Lan tròn niềm hiếu đạo, còn bằng không hết thảy chỉ hoàn không, luống qua vô ích. Nặng tình Vu Lan biết lấy chi đền đáp, phát nguyện tu hành mới thật là báo đáp tứ ân.

Thích Tâm Mãn
(Chùa Minh Thành)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6992)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8338)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16578)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8547)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6440)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5608)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7202)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7221)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7820)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6099)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]