Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nặng tình Vu Lan

30/08/201204:07(Xem: 8589)
Nặng tình Vu Lan
NẶNG TÌNH VU LAN
Thích Tâm Mãn

lavangmuathu2Vu Lan về rồi nhưng sao trong lòng không thấy khởi niệm hân hoan, tôi hỏi lại mình hay còn thiếu gì chăng? Mưa, không! mưa phố núi đã rơi đều suốt tháng ngày cuối hạ, tí tách giọt đều dẫn người lại gần với mùa thu. Lá vàng ư! không hàng liễu trước chùa nay đã úa vàng rơi gần hết, trơ cả cành mềm chịu gió táp mưa sa, cơn gió chợt về xì xào đám sen mùa lá đỏ, xan xát vì héo gầy, rách nát bởi khô khan. Tiếng ve gọi hè gần như đã im bặt, trả lại gió ngàn đong đưa lá vàng xào xạc đón thu sang, thu đã sang, Vu Lan đã về sao cứ thấy lòng nặng trĩu, ngồi một mình với tách trà thu, am vắng, thử hỏi một lần lòng nặng trĩu vì đâu.

Ai không biết Vu Lan là mùa Báo Hiếu, có ai không hiểu là mọi người nên tưởng nhớ đến công ơn hai đấng sanh thành, rồi làm gì đó để bày tỏ lòng mình quan tâm, hiếu thảo, cảm ơn, có người chỉ cần đứng trước mẹ sâu lắng nói một lời Vu Lan: "Mẹ ơi! mẹ biết con thương mẹ lắm không?", lại có người tụng Kinh Vu Lan dùng lời Phật để đáp đền ân đức, lại cũng có người cúng dường tứ sự lên Tăng để đem công đức hồi hướng báo hiếu cha mẹ. Vâng tất cả là Vu Lan của người con hiếu hạnh, cứ mỗi năm về mọi người lại một lần thương.

Vu Lan của người Phật tử tại gia là như vậy, Vu Lan của người xuất trần "Bát cơm xin vạn nhà, thân chơi muôn dặm xa, chỉ vì việc sanh tử, mây trắng hỏi đường qua". Người xuất gia báo hiếu ai đây, ngồi đọc lại những lời xưa Tổ dạy trong Quy Sơn Cảnh Sách: "Người xuất gia đối với cha mẹ thì không cung phụng món ngon vật lạ, đối với thân quyến rời bỏ xa cách không gần... đối với gia tộc không màng đến nghĩa vụ thừa kế, xa làng bỏ xóm, cắt tóc đi tu...". Như vậy thì Vu Lan với người xuất trần không có ý nghĩa gì hay sao?

Không! Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi như trong Quy Sơn Cảnh Sách Tổ dạy: "Người xuất gia phải có tâm chí vượt ra khỏi trời đất, nên cất bước thì hướng tới phương trời cao rộng, từ tâm ý cho đến hình tướng phải đều khác hẳn với người thế tục, là hạt giống lành nối tiếp ngày càng làm rạng rỡ thêm nhà Phật, làm cho chúng ma phải khiếp sợ khuất phục, với tâm niệm báo đáp bốn ân, cứu vớt ba loài". Báo hiếu Vu Lan của người xuất gia là như vậy.

Vu Lan về, lời Phật dạy còn đó, lời Tổ đinh ninh chúng ta đã làm được gì? hay chỉ là như làm cho thêm buồn, như ý Tổ dạy trong sách Quy Sơn: "Sao lại mới bước lên phẩm bậc của giới pháp, mà đã tự thị ta đây là vị Tỳ Kheo. Dùng của cúng dường của Đàn na thí chủ, ăn ở tiêu hao của thường trụ, không biết xét kỹ vì sao mà có của ấy, lại bảo rằng lẽ tự nhiên là người phải hiến cúng. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn chuyện tạp của thế gian...". Nếu là như vậy Vu Lan về thật là vô nghĩa.

Như vậy thì làm sao chúng ta có thể nhận biết được Vu Lan đã về, Vu Lan còn ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta, vì chúng ta đang mải miết say mê trong ảo cảnh, không hiểu tu tập để làm gì như trong Quy Sơn Tổ dạy: "Cứ thừa dịp vui thích, mà không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự khổ đau. Bao kiếp xưa kia, đem thân si mê theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh, thì giờ này chỉ để năm tháng dần qua, không lo tu học, mất mát khôn cùng, thọ hưởng càng nhiều, của thí lợi càng lắm, hết năm này qua năm khác mà không biết nghĩ đến sự rời bỏ, có hiểu đâu chất chứa càng nhiều cũng chỉ là bảo trì thân xác giả huyễn mà thôi...". Nếu một ngày nào đó vô thường vẫy gọi, hỏi lại ta đã làm được gì để báo đáp trọng ân Vu Lan, ân Tam Bảo ơn tín thí đàn na.

Hay cuối cùng rồi chúng ta cũng chỉ là như vậy, không khác gì với ngày mới cắt tóc quy y. Như Tổ Quy Sơn từng chỉ dạy: "Quả là kẻ chưa bao giờ nghe đến sự hành trì và huấn dụ của Phật dạy bảo, nên suốt bao năm cũng chỉ có một chiều hướng, tánh tình vẫn còn như cũ giữ y nguyên. Cung cách chẳng khác gì ngày xưa biếng nhác, ham muốn những điều xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời, hóa thành kẻ không tăng không tục. Thế rồi bất giác lóng cóng đã đến ngày già yếu, gặp việc thì như đối diện với tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời chỉ để hướng dẫn tu hành...".

Nếu là như vậy thật oan uổng cho một kiếp tu hành, lấy gì để Vu Lan về báo đáp thâm ân. Thử hỏi cha mẹ nào nghe con mình tu hành như vậy mà sanh tâm hoan hỷ, Thầy Tổ nào hãnh diện vì có một người học trò tu học kiểu như trên, vậy thì ta lấy chi để báo đáp? sao chúng ta có thể cho phép mình làm những việc vô tâm.

Tổ Quy Sơn dạy: "... ai kia đã là đấng trượng phu thì ta đây cũng có thể làm được như thế, đừng tự khinh thị mình mà lùi bước và khuất phục trước khó khăn...". Nếu ý thức được như vậy, thì có gì mà ta không làm được, khó khăn nào mà ta chẳng vượt qua, và không có thành tựu nào mà ta không thể thành tựu, được như vậy mới thật là vâng lời Tổ dạy: "...là người chẳng phải là bậc thượng trí, không dễ có thể mau vượt lên được, thì nên hãy để tâm trí vào học hành giáo pháp, ôn cho thuộc, tìm kiếm sưu tra kinh điển cho rõ pháp Phật, nghiên cứu tinh tường nghĩa lý, để rồi truyền bá diễn giảng dẫn dắt người sau, báo đáp ơn Phật. Đừng để uổng phí thời gian, lấy công hạnh huân tu trên đây mà hỗ trợ đời mình. Như thế thì động cũng như tĩnh đều có uy nghi, tự mình biến thành bậc "pháp khí" trong hàng Tăng bảo...".

Nếu làm được như vậy, thì đây là món quà Vu Lan hiếu hạnh lớn nhất trong thế gian, còn bằng không thì chẳng khác nào bị Tổ quở trách trong Quy Sơn Cảnh Sách : "...ở trong hàng ngũ của người xuất gia chỉ là vô ích, dần dà phí hết cả một đời mà quả thực không có một chút ích lợi gì hết...". Lắng lòng nghe lời Tổ dạy, tự mình sám hối ăn năn, có trễ nhưng chưa muộn, vì Vu Lan còn về để rồi lại nhận yêu thương.

Ngoài hiên gió đùa càng thêm hiu hắt, lại vài giọt mưa buồn thêm chút vọng Vu Lan, đọc lại những lời Tổ dạy ngày xưa, sao nghe nát cả cõi lòng, bỗng thấy thẹn mình chưa trọn một kiếp tu, mỗi năm thu đến lá vàng, Vu Lan lại về để đón nhận tình thương. Thương cho ta chưa tròn tâm tu học, thương cho cha mẹ già đang ngóng chờ công đức tu hành của con thơ, thương cho thầy tổ ngóng trông những hạt giống lành để trùng hưng Tam Bảo, thương cho Phật Đà hy vọng Chánh pháp sẽ có người truyền thừa xiển dương, tất cả tình thương ngóng trông đều từ đâu? ấy vậy Vu Lan về sao ta lại không hay biết!

Thôi thì chúng ta hãy vì niệm nặng tình yêu thương của Vu Lan phát tâm cố gắng, như Tổ đã dạy: "...bên trong thì siêng tu tập công phu khắc trừ niệm ác, bên ngoài thì hiển bày đức tính hiền hòa, xa lìa trần tục, mong cầu giải thoát", để rồi có thể làm được những gì mà Tổ căn dặn trong Quy Sơn thì không uổng phí luống qua một kiếp tu hành, thành tựu trọn vẹn yêu thương dâng lên cúng dường Vu Lan Thắng Hội: "tu hành mà động cũng như tĩnh đều được an nhiên, như vậy mới thật không uổng phí, mặc một đời khoác áo cà sa, như vậy cũng tức là đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu có thể đời đời không thoái chuyển thì quả vị Phật Đà quyết chẳng còn xa, để rồi là lữ khách tự tại dạo chơi trong ba cõi, đến đi ra vào đều làm khuôn phép cho người sau...".

Báo ân Vu Lan của người xuất gia là như vậy, tình thương Vu Lan xuất trần là như thế, nếu là con Phật, không ai không có ngày tu hành đạt đến tình thương Vu Lan xuất thế, không cha mẹ nào không mong muốn con mình thoát khổ sanh vui, nặng tình mong hoài hậu học xuất ly khổ hải của các bậc Tiên giác Đạo sư, nếu như hiểu được, ngộ được thì Vu Lan tròn niềm hiếu đạo, còn bằng không hết thảy chỉ hoàn không, luống qua vô ích. Nặng tình Vu Lan biết lấy chi đền đáp, phát nguyện tu hành mới thật là báo đáp tứ ân.

Thích Tâm Mãn
(Chùa Minh Thành)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2013(Xem: 39999)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 30193)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 25831)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 41275)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
16/10/2013(Xem: 19380)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
14/10/2013(Xem: 19464)
Nàng thở ra một hơi thật dài, mặt sáng lên, vui mừng nói: “Bây giờ em mới thực sự hết lo về chuyện cô cán bộ ấy. Nhưng không biết cô ấy và ông thầy kia có thoát được thật không hay là cuối cùng lại bị bắt? Em lo cho họ quá.” “Hy vọng họ thoát, vì từ đó về sau, không nghe cán bộ hay tù nhân trong trại đá động gì tới họ nữa.”
12/10/2013(Xem: 20099)
Có những ngày trong đời, người ta thả trôi lòng mình theo dòng cuốn dập dềnh bất định của bao cảm giác. Vui thì cười nói hồn nhiên, lộ vẻ sung sướng, buồn thì mặt dàu dàu cúi xuống để nước mắt rơi thành dòng. Điều đó chẳng có gì lạ, Còn vui buồn, còn cười khóc được thì hãy còn là con người.
11/10/2013(Xem: 10197)
Bệnh ( 病 ) là thuật ngữ chung cho cả Đông lẫn Tây y, Bệnh là là một cảm giác đau đớn, cả thể xác lẫn tinh thần. Bệnh là 1 trong 4 cái khổ ( Sanh 生, Lão 老, Bệnh 病, Tử 死 )của chúng sinh mà Phật đã dạy. Mà đã là chúng sinh thì ai cũng phải bệnh, hôm nay ta còn trẻ khỏe, nhưng một ngày nào đó khi đã đến tuổi già cũng phải nếm trải 1 đôi lần bị bệnh, hoặc hơn thế nữa. Bệnh là do Âm Dương mất cân bằng, Ngũ hành tương khắc, Tứ đại không hòa, bệnh khổ là một quy luật chung ở góc độ nhân sinh quan. Bệnh có thể chia ra 3 yếu tố :
11/10/2013(Xem: 9451)
Trước hết phải là sự độ lượng ...
11/10/2013(Xem: 10911)
Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau: _ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa: + Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]