Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Theo Pháp Môn Niệm Phật

25/05/201204:18(Xem: 9974)
Tôi Theo Pháp Môn Niệm Phật

TÔI THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.

1. Đại thừa bắt đầu từ Đại tập kết kinh điển lần 2

    Theo Tiến sỹ Nalinaksha Dutt trong quyển “ Buddhist Sects In India” (Các Phái Phật Giáo ở Ấn Độ), kỳ kết tập kinh điển lần 2 là khởi điểm của Phật giáo Đại thừa, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Nalinaksha Dutt còn cho rằng đại hội tập kết lần này không có chủ tọa mà mọi việc được thi hành bởi một ủy ban bốn vị tỳ kheo thuộc các xứ miền đông và bốn vị miền tây cùng với sự tham gia rộng rãi của các tỳ kheo (A La Hán và cũng như không A La Hán). Vì thế “Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển này là Ðại Kiết Tập (Mahasangiti), và đồng ý là sẽ chấp nhận những quyết nghị của Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển mở rộng này. Những người tham dự Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển mới này tin là những quyết nghị của họ sẽ phù hợp với giáo lý của Ðức Phật”. (Dutt, 2003: ChươngII, trang 2). Điểm đáng lưu ý nữa là trong tám vị Tỳ Kheo này, theo Thiện Minh, có 6 vị là đệ tử của Ngài A Nan Đà, là thị giả của Đức Phật và người đã nghe hết tất cả những bài pháp của Như Lai khi còn sống và cũng là người có tầm quan trọng trong kỳ tập kết kinh điển lần thứ nhất. Có thể suy luận từ đây là Phật Giáo Đại Thừa ra đời trong kỳ tập kết kinh điển lần hai có sự tham gia trực tiếp của các đệ tử của Ngài A Nan Đà, những tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ngài A Nan Đà vì thế kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa là đáng tin cậy.

    2. Chân lý khoa học hiện đại và Kinh điển đại thừa

      Phật giáo là khoa học. Chân lý này đã được minh chứng qua những thành tựu khoa học trong nhưng thế kỷ gần đây. Có khá nhiều bài viết về sự tương đồng của khoa học ngày nay với Phật giáo từ y khoa, vật lý, cho đến toán học có thể giúp bạn đọc hiểu rõ về vấn đề này. Chẳng hạn, ‘Đạo Phật là Siêu Khoa Học’ của Minh Giác Nguyễn Học Tài, ‘Tích hợp Vật lý và Phật học’ của Giáo sư Tiến sỹ Cao Chi, hoặc “Luân hồi tái sinh có thể hiểu được’ do Giáo sư tiến sỹ vật lý Trịnh Xuân Thuận viết vv. Để ý kỹ chúng ta thấy những dẫn chứng chứng minh Phật học là khoa học đa số trích từ kinh điển đại thừa. Sau đây vài ví dụ đơn giản dễ hiểu cho thấy sự tương đồng của khoa học và Phật giáo đại thừa

      2.1 Trong Kinh Báo Hiếu, Đức Phật dạy bảo A Nan nên biết;

      “Xương nữ nam phân biệt rõ ràng

      Đàn ông xương trắng nặng hoằng

      Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn

      Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

      Bởi đàn bà sinh đẻ mà ra

      Sanh con ba đấu huyết ra

      Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con…”

      Thật đúng vậy, theo y học ngày nay, tỷ trọng (density) xương đàn bà 30% ít hơn xương của đàn ông. 30% ít hơn xương của đàn ông. Ở mổi thập niên cơ thể của người đàn bà đều trải qua một giai đọan mới: người thiếu nữ ở tuổi dạy-thì khác hẳn với lúc họ vào lứa 20, 30 thời kỳ sinh sãn, hoặc 40, 50, nhằm thời kỳ mãn kinh, v.v... Tỷ trọng của xương đạt tới mức tối đa khi người thiếu nữ vào độ 30 tuổi và dần dần xương bị loãng đi theo ngày tháng. Đến lúc 65 - 75 tuổi thì tỷ trọng xương đã giảm mất 35% đến 50%.

      2.2 Trong kinh Hán tạng (Đại thừa Kinh) có câu

      "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng" Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn ngàn (84000) vi trùng.

      "Nhơn thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú"nghĩa là Phật nhìn thấy trong thân người có vô số vi trùng đang trú ẩn bên trong.

      Ngày nay nhờ kính hiển vi và các thiết bị y khoa hiện đại, các nhà khoa học thấy có nhiều vi trùng ở trong nước và cơ thể con người.

      3. Chân ngôn của Như Lai và sự kiện lịch sử Phật giáo

        Một bằng chứng nữa cho thấy những sự kiện lịch sử phật học xảy ra đúng với lời Đức Phật dạy (tiên tri) trong Kinh điển đại thừa.

        3.1 Pháp môn niệm Phật ‘dành cho chúng sanh’ ở thời kỳ Chánh Pháp cuối cùng, 1000 năm sau khi Như Lai nhập diệt.

        Trong Kinh Niệm Phật Ba la Mật, Cư sĩ Diệu Nguyệt vì chúng sanh tội khổ ở thời kỳ chánh pháp cuối cùng cũng như các bậc trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn vv tại thành Vương Xá lúc bấy giờ thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy Pháp môn niệm Phật để cứu vớt chúng sanh thoát khỏi sinh tử luân hồi.

        “Sau khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn mất, chúng sanh căn cơ hạ liệt, ám độn, ngã chấp sâu dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say sưa làm các nghiệp ác để tự vui. Do đó tự nhiên chiêu cảm động đất, đói kém, tật dịch, binh đao, bão lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt bức não. Thánh nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các môn Giới luật, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát vô lậu. Không thể tu tập Tứ-niệm-xứ, Bát-chánh-đạo, Tứ-chánh-cần. Không thể tu tập Tứ-vô-lượng-tâm, không thể tu tập Sáu-ba-la-mật, hoặc là Bố-thí ba-la mật, nhẫn đến Trí-huệ ba-la-mật, không thể tu tập bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ nhập Phật Tri Kiến. Không thể chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Không thể chứng nhập Sơ-thiền nhẫn đến Tứ-thiền. Không thể chứng nhập Niết-bàn Diệu-tâm. Không thể vào sâu vô lượng Tam-muội, Thần-thông Du-hí của chư Bồ-Tát, nhẫn đến không thể thâm nhập cảnh giới thù thắng trang nghiêm của chư Phật, hoặc rải cỏ nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma quân. Vì lý do như vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi Vô-thượng Bồ-đề-tâm. Khẩn cầu đức Thế-Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu, mong lợi lạc hết thảy tội khổ chúng sanh ở thời kỳ cuối cùng của Chánh pháp.” (Trang 10)

        Đúng như vậy sau khi Như Lai nhập diệt gần 1000 năm sau, pháp môn Niệm Phật chớm nở ở Trung Hoa bằng sự ra đời của Huệ Viễn Đại sư, Sơ Tổ Tịnh độ là một Cao tăng Trung Quốc đời nhà Tấn (334 -414). Pháp môn này thật sự phát triển mạnh từ thời Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư (613) cho đến ngày nay.

        3.2 Bồ Tát Long Thọ ra đời, chấn hưng Phật Giáo Đại thừa

        Trong kinh Lăng Già (một trong những kinh Đại thừa được các chư tổ thiền tông dùng dể truyền tâm ấn), về ngài Long Thọ, đức Phật đã có lời huyền ký với Đại Huệ Bồ Tát rằng:

        Đại Huệ ông nên biết
        Chứng sơ Hoan hỷ địa
        Đời vị lai sẽ có
        Sau khi ta nhập niết bàn
        Tôn hiệu là Long Thọ
        Tỳ kheo danh đức lớn
        Duy trì pháp của ta
        — nước Nam Thiên Trúc
        Trong thế gian hiển ngã
        Phá các tông Hữu, Vô tông.
        Tuyên dương pháp Đại-thừa.

        Trong thế gian hiển ngã.
        Được Sơ-hoan-hỷ-địa.
        Sanh về cõi Cực-Lạc”.

        Như thế, ngài Long Thọ ứng tích là bậc Sơ Địa Bồ Tát Bi Trí rộng sâu. Theo sử liệu được trình bày như trên, khởi điểm của Phật Giáo Đại Thừa vào hơn 100 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Có thể cho rằng những kinh sách phật giáo đại thừa đã được kết tập từ thời điểm này, phát triển mạnh về sau và được NgàiLong Thọ sưu tập, kiến giải nhằm bảo tồn tư tưởng then chốt của Phật giáo mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã để lại vì theo Ngài Long Thọ những tư tưởng này đang gặp nguy cơ thất lạc qua xu hướng kinh viện triết học của một số trường phái tiểu thừa thời đó (khoảng 700 phật lịch). Quan điểm về kinh điển đại thừa không phải có từ thời ngài Long Thọ mà đã tồn tại và phát triển trước đó (từ Đại Kiết Tập lần 2) cũng được sử gia Kimura Taiken tán thành khi cho rằng “Long Thọkhông phải là nhà biên tập kinh điển Đại thừa, mà chỉ là nhà chú giải những kinh điển Đại thừa đã có từ trước để phát động một phong trào nghiên cứu Đại thừa mà thôi.” (Taiken: 1986:3) Nhiều nghiên cứu gia về phật học nhận xét rằng Ngài Long Thọ là một trong những người có công nhất trong việc chấn hưng tư tưởng phật giáo đại thừa. Chính vì thế, “Người ta xem sự xuất hiện của Long Thọ là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong tranh tượng, Long Thọ là vị duy nhất sau Phật Thích-ca được trình bày với chóp trên đỉnh đầu (nhục kế), một dấu hiệu của một Đại nhân. Long Thọ cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Truyền thống Mật giáo cũng xếp Ngài vào 84 vị Đại thành tựu.”(Wikipidia).

        4. Thiền tông với Kinh điển Đại thừa

          Một số kinh điển đại thừa được một số chư tổ và các vị thiền sư nổi tiếng sử dụng như một trong những yếu chỉ của tông pháp, kim chỉ nam cho con đường tu chứng qua thiền định. Sau đây là bốn bộ Kinh được giới thiền tông truyền tụng: Kinh Lăng Già, King Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Hoa. Kinh Lăng Già được xem như là Kinh truyền tâm ấn của các chư tổ thiền Tông: Tổ Bồ-đề-đạt-ma sau khi truyền y bát cho Tổ Huệ Khả, Ngài còn trao cho bốn quyển kinh Lăng-già để làm tâm ấn. Cho nên Kinh Lăng-già trong nhà Thiền được coi là một bộ kinh để tâm ấn. Trong bốn bộ kinh này, Kinh Lăng-già, Kinh Lăng nghiêm và Kinh Pháp Hoa cũng đều đề cập đến Pháp tu Niệm Phật Tam Muội hoặc cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Trong Kinh Lăng Nghiêm chương năm, 25 vị bồ Tát tự giải cách tu chứng vào càn tuệ địa, Bồ Tát Đại Thế Chí (niệm Phật viên thông) nói, ‘Chỗ bản nhân của con lấy niệm Phật tâm chứng vô –sinh –nhẫn. Nay ở cõi này nhiếp người niệm Phật về Cõi Tịnh Độ.” (trang 313) Trong khi đó trong Kinh Pháp Hoa ở phẩm 23 (Dược Vương Bồ Tát Bản Sự) Ðức Phật Thích Ca đã đề cập đến cõi Cực Lạc "Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Ðà Phật cùng chúng Bồ Tát vây quanh, mà sinh trên toà báu trong hoa sen."

          5. Nhân vật thời đại và pháp môn niệm phật

            Những chủ thuyết xiển dương pháp môn niệm Phật đều do bởi những thánh nhân kiệt xuất mà hàng Thanh Văn không thể sánh kịp. Quyển luận , “Quê Hương Cực Lạc” luận về thân thế và đạo nghiệp của Bồ Tát và Chư Thánh tăng cho thấy kiến thức vô song của các ngài về Phật học và nhiều lãnh vực khác. Chẳng hạn như Ngài Long Thọ, Ngài Mã Minh, Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân vv là những bậc thánh thấu rõ kinh tạng, trí huệ như hải.

            5.1 Bồ Tát Long Thọ là người học thức uyên thâm, thông đạt kinh sách Phật giáo lẫn những tôn giáo khác vì thế ngài một thân làm Tổ Sư của tám tông Phật Giáo (cũng là tổ 14 của thiền tông), mà vẫn phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ và xiển dương pháp môn Niệm Phật.

            5.2 Ngài Mã Minh Đại Sĩ, tổ sư 12 thiền tông cũng là người xiển dương pháp môn niệm Phật xác quyết: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của Như Lai”. Ngài Mã Minh không chỉ là một đại diễn giả đầu tiên về giáo nghĩa và triết lý Đại thừa, thuộc vào hạng các nhà tư tưởng tiên phong sâu sắc, có nhiều đóng góp cho lịch sử phát triển tư tưởng Phật giáo, mà còn là là một nhà thơ lớn, một nhà biện tại vô ngại, một tác gia lớn và là một nhạc sĩ. Phần lớn các học giả Phật giáo phương Tây biết đến ngài Mã Minh qua trường ca “Phật Sở Hành Tán” S. Buddha-carita-kāvya), thi phẩm nổi tiếng về cuộc đời đức Phật, được viết bằng thơ Sanskrit. Với thiên tài thi ca (poetical genius) Sanskrit vô tiền khoáng hậu của ngài Mã Minh đã góp phần đưa văn học Sanskrit Phật giáo đến đỉnh cao văn chương và triết lý.

            5.3 Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân khai tổ Tịnh Độ Tông Nhật bản. Ngài nghiên cứu tường tận về mọi tông phái Phật giáo và đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất. Không những thế, ngài chứng nghiệm và thông tuệ một số tông pháo khác như thiên thai tông (tu thiền, được Tổ Hoàng Viên có ý trao truyền tổ vị cho ngài nhưng ngài tư chối), mật tông trước khi nhập thất chuyên tu Tịnh độ, niệm Phật vãng sanh.

            5.4 Trí Giả Tổ Thiên Thai Tông; Hoằng Nhứt Tổ Sư Luật Tông và nhiều thánh tăng khác đều có trí tuệ vô tiền khoáng hậu đều cầu cầu vãng sanh Cực Lạc.

            6. Đối tượng giáo hóa của Đức Phật

              Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi đắc đạo quả cao thượng Chánh đẳng, Chánh giác, đã trải qua hơn 49 năm hoằng dương Phật pháp trên khắp đất nước Ấn độ, cứu độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đạo Phật là đạo trí tuệ, từ bi và bình đẳng, không phân biệt cao thấp hay giàu nghèo. Vì thế, đối tượng giáo hóa của Như Lai gồm đủ thành phần trong xã hội từ tầng lớp quí tộc cho đến những con người bần cùng nhất, từ người hiền lành cho đến kẻ xấu ác. Chung quy lại, những người theo Đạo giải thoát của Như Lai gồm người tu xuất gia và người tu tại gia. Người tu xuất gia là những người ở trong tăng đoàn theo chân Bổn sư học đạo. Đa số họ được Đức Phật truyền pháp tu thiền, trì giới để đạt đạo quả. Trong khi đó những người khác, chẳng hạn như hoàng hậu Vi Đề Hy, không theo tăng đoàn thì làm sao có thời gian để tu thiền, trì giới như các đệ tử của Đức Phật. Hơn nữa, những người như hoàng hậu Vi Đề Hy chiếm số lượng vượt trội hơn nhiều so với các tỳ kheo trong tăng đoàn của Đức Phật. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là nếu đối tượng cứu độ chúng sinh của Đức Phật chỉ bó hẹp trong tăng đoàn, hay những cư sĩ tại gia có duyên tu theo Tứ Diệu Đế như các vị tỳ kheo của Như Lai thì không đúng với mục đích cao thượng của Thế Tôn, cứu độ chúng sanh và cũng không thể gọi đạo phật là đạo từ bi, bình đẳng được. Vì sao, Nhục thân của các vị tỳ Kheo, đệ tử của Đức Phật được nuôi dưỡng từ những phần thức ăn của đại chúng trong khi đó, bản thân Đức Phật là do cha mẹ của ngài mang nặng đẻ đau và nuôi dưỡng. Vì thế trước tiên để trả hiếu cho cha mẹ, Đức Phật dùng phương tiện gì để độ? Đối với Tịnh Phạn, Vua cha của Đức Phật và những người thuộc họ Thích, theo kinh, Thế Tôn giảng pháp môn niệm thánh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT cầu vãng sanh Tây Phương Cực lạc. Hoặc đối với Hoàng hậu Vi Đề Hy và Vua Tần Bà Sa La, những người đầu tiền cúng dường cho Đức Phật và tăng đoàn khu vườn Trúc Lâm để Tịnh tu, Đức Phật giảng pháp quán cõi cực Lạc, hoặc quán tưởng Phật A DI ĐÀ cầu vãng sanh về nước của Ngài vv. Nói một cách khác, đối tượng giáo hóa của đức phật là toàn thể chúng sinh.

              7. Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi

                Xá lợi có thể được xem như là bằng chứng nữa cho thấy công phu niệm Phật của người niệm Phật đã thành ‘quả’ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Nhiều bằng chứng niệm Phật lưu xá lợi có thể tìm thấy trong quyển “Niệm Phật lưu xá lợi của Cư Sĩ Tịnh Hải. Gần đây nhất, chính Cư Sĩ Tịnh Hải đã để lại hàng ngàn viên xá lợi ngay sau lễ trà tỳ vào sáng thứ Hai, 01 tháng 03 năm 2010 tại nhà quàn Peek Family Home phòng số 2 - địa chỉ 7800 Bolsa Ave, Westminster (714)893-3525, dưới sự chứng minh của thượng tọa Thích Thiện Long, chùa Phật Tổ ở Long Beach.

                8. Hợp thời

                  Kinh Đại Tập dạy: "Đời mạt pháp ức ức người tu hành hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào niệm Phật mới thoát khỏi sanh tử".

                  Đúng vậy, Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm mươi lăm bốn (2554). Như vậy, hiện chúng ta đang ở thời mạt pháp, mà càng đi sâu vào thời mạt pháp thì đức trí chúng sanh càng hạ liệt.

                  9. Vì đại chúng

                    Theo Pháp môn Tịnh độ, chúng ta phải ‘thực hành bồ tát đạo’, tự độ, độ tha. Tâm lượng bao trùm khắp pháp giới. Niệm phật tri ân, niệm phật giải oán, niệm phật để giải thoát mình và chúng sanh, niệm phật để thân tâm an lạc, gia đình hạnh phúc, xã hội bình an vv.

                    Tâm Tịnh Cẩn Soạn

                    Gửi ý kiến của bạn
                    Tắt
                    Telex
                    VNI
                    Tên của bạn
                    Email của bạn
                    15/05/2021(Xem: 4934)
                    Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
                    15/05/2021(Xem: 5066)
                    Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
                    15/05/2021(Xem: 4429)
                    Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
                    15/05/2021(Xem: 4089)
                    Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
                    10/05/2021(Xem: 4688)
                    Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
                    08/05/2021(Xem: 4149)
                    Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
                    04/05/2021(Xem: 3594)
                    Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
                    30/04/2021(Xem: 6875)
                    Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
                    30/04/2021(Xem: 6950)
                    Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
                    27/04/2021(Xem: 5046)
                    Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
                    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
                    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
                    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

                    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
                    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
                    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
                    the Land of Ultimate Bliss.

                    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
                    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
                    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
                    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
                    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
                    Website: http://www.quangduc.com
                    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
                    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
                    [email protected]