Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Theo Pháp Môn Niệm Phật

25/05/201204:18(Xem: 9942)
Tôi Theo Pháp Môn Niệm Phật

TÔI THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.

1. Đại thừa bắt đầu từ Đại tập kết kinh điển lần 2

    Theo Tiến sỹ Nalinaksha Dutt trong quyển “ Buddhist Sects In India” (Các Phái Phật Giáo ở Ấn Độ), kỳ kết tập kinh điển lần 2 là khởi điểm của Phật giáo Đại thừa, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Nalinaksha Dutt còn cho rằng đại hội tập kết lần này không có chủ tọa mà mọi việc được thi hành bởi một ủy ban bốn vị tỳ kheo thuộc các xứ miền đông và bốn vị miền tây cùng với sự tham gia rộng rãi của các tỳ kheo (A La Hán và cũng như không A La Hán). Vì thế “Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển này là Ðại Kiết Tập (Mahasangiti), và đồng ý là sẽ chấp nhận những quyết nghị của Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển mở rộng này. Những người tham dự Cuộc Kết Tập Kinh Ðiển mới này tin là những quyết nghị của họ sẽ phù hợp với giáo lý của Ðức Phật”. (Dutt, 2003: ChươngII, trang 2). Điểm đáng lưu ý nữa là trong tám vị Tỳ Kheo này, theo Thiện Minh, có 6 vị là đệ tử của Ngài A Nan Đà, là thị giả của Đức Phật và người đã nghe hết tất cả những bài pháp của Như Lai khi còn sống và cũng là người có tầm quan trọng trong kỳ tập kết kinh điển lần thứ nhất. Có thể suy luận từ đây là Phật Giáo Đại Thừa ra đời trong kỳ tập kết kinh điển lần hai có sự tham gia trực tiếp của các đệ tử của Ngài A Nan Đà, những tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ngài A Nan Đà vì thế kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa là đáng tin cậy.

    2. Chân lý khoa học hiện đại và Kinh điển đại thừa

      Phật giáo là khoa học. Chân lý này đã được minh chứng qua những thành tựu khoa học trong nhưng thế kỷ gần đây. Có khá nhiều bài viết về sự tương đồng của khoa học ngày nay với Phật giáo từ y khoa, vật lý, cho đến toán học có thể giúp bạn đọc hiểu rõ về vấn đề này. Chẳng hạn, ‘Đạo Phật là Siêu Khoa Học’ của Minh Giác Nguyễn Học Tài, ‘Tích hợp Vật lý và Phật học’ của Giáo sư Tiến sỹ Cao Chi, hoặc “Luân hồi tái sinh có thể hiểu được’ do Giáo sư tiến sỹ vật lý Trịnh Xuân Thuận viết vv. Để ý kỹ chúng ta thấy những dẫn chứng chứng minh Phật học là khoa học đa số trích từ kinh điển đại thừa. Sau đây vài ví dụ đơn giản dễ hiểu cho thấy sự tương đồng của khoa học và Phật giáo đại thừa

      2.1 Trong Kinh Báo Hiếu, Đức Phật dạy bảo A Nan nên biết;

      “Xương nữ nam phân biệt rõ ràng

      Đàn ông xương trắng nặng hoằng

      Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn

      Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

      Bởi đàn bà sinh đẻ mà ra

      Sanh con ba đấu huyết ra

      Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con…”

      Thật đúng vậy, theo y học ngày nay, tỷ trọng (density) xương đàn bà 30% ít hơn xương của đàn ông. 30% ít hơn xương của đàn ông. Ở mổi thập niên cơ thể của người đàn bà đều trải qua một giai đọan mới: người thiếu nữ ở tuổi dạy-thì khác hẳn với lúc họ vào lứa 20, 30 thời kỳ sinh sãn, hoặc 40, 50, nhằm thời kỳ mãn kinh, v.v... Tỷ trọng của xương đạt tới mức tối đa khi người thiếu nữ vào độ 30 tuổi và dần dần xương bị loãng đi theo ngày tháng. Đến lúc 65 - 75 tuổi thì tỷ trọng xương đã giảm mất 35% đến 50%.

      2.2 Trong kinh Hán tạng (Đại thừa Kinh) có câu

      "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng" Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn ngàn (84000) vi trùng.

      "Nhơn thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú"nghĩa là Phật nhìn thấy trong thân người có vô số vi trùng đang trú ẩn bên trong.

      Ngày nay nhờ kính hiển vi và các thiết bị y khoa hiện đại, các nhà khoa học thấy có nhiều vi trùng ở trong nước và cơ thể con người.

      3. Chân ngôn của Như Lai và sự kiện lịch sử Phật giáo

        Một bằng chứng nữa cho thấy những sự kiện lịch sử phật học xảy ra đúng với lời Đức Phật dạy (tiên tri) trong Kinh điển đại thừa.

        3.1 Pháp môn niệm Phật ‘dành cho chúng sanh’ ở thời kỳ Chánh Pháp cuối cùng, 1000 năm sau khi Như Lai nhập diệt.

        Trong Kinh Niệm Phật Ba la Mật, Cư sĩ Diệu Nguyệt vì chúng sanh tội khổ ở thời kỳ chánh pháp cuối cùng cũng như các bậc trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn vv tại thành Vương Xá lúc bấy giờ thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy Pháp môn niệm Phật để cứu vớt chúng sanh thoát khỏi sinh tử luân hồi.

        “Sau khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn mất, chúng sanh căn cơ hạ liệt, ám độn, ngã chấp sâu dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say sưa làm các nghiệp ác để tự vui. Do đó tự nhiên chiêu cảm động đất, đói kém, tật dịch, binh đao, bão lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt bức não. Thánh nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các môn Giới luật, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát vô lậu. Không thể tu tập Tứ-niệm-xứ, Bát-chánh-đạo, Tứ-chánh-cần. Không thể tu tập Tứ-vô-lượng-tâm, không thể tu tập Sáu-ba-la-mật, hoặc là Bố-thí ba-la mật, nhẫn đến Trí-huệ ba-la-mật, không thể tu tập bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ nhập Phật Tri Kiến. Không thể chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Không thể chứng nhập Sơ-thiền nhẫn đến Tứ-thiền. Không thể chứng nhập Niết-bàn Diệu-tâm. Không thể vào sâu vô lượng Tam-muội, Thần-thông Du-hí của chư Bồ-Tát, nhẫn đến không thể thâm nhập cảnh giới thù thắng trang nghiêm của chư Phật, hoặc rải cỏ nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma quân. Vì lý do như vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi Vô-thượng Bồ-đề-tâm. Khẩn cầu đức Thế-Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu, mong lợi lạc hết thảy tội khổ chúng sanh ở thời kỳ cuối cùng của Chánh pháp.” (Trang 10)

        Đúng như vậy sau khi Như Lai nhập diệt gần 1000 năm sau, pháp môn Niệm Phật chớm nở ở Trung Hoa bằng sự ra đời của Huệ Viễn Đại sư, Sơ Tổ Tịnh độ là một Cao tăng Trung Quốc đời nhà Tấn (334 -414). Pháp môn này thật sự phát triển mạnh từ thời Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư (613) cho đến ngày nay.

        3.2 Bồ Tát Long Thọ ra đời, chấn hưng Phật Giáo Đại thừa

        Trong kinh Lăng Già (một trong những kinh Đại thừa được các chư tổ thiền tông dùng dể truyền tâm ấn), về ngài Long Thọ, đức Phật đã có lời huyền ký với Đại Huệ Bồ Tát rằng:

        Đại Huệ ông nên biết
        Chứng sơ Hoan hỷ địa
        Đời vị lai sẽ có
        Sau khi ta nhập niết bàn
        Tôn hiệu là Long Thọ
        Tỳ kheo danh đức lớn
        Duy trì pháp của ta
        — nước Nam Thiên Trúc
        Trong thế gian hiển ngã
        Phá các tông Hữu, Vô tông.
        Tuyên dương pháp Đại-thừa.

        Trong thế gian hiển ngã.
        Được Sơ-hoan-hỷ-địa.
        Sanh về cõi Cực-Lạc”.

        Như thế, ngài Long Thọ ứng tích là bậc Sơ Địa Bồ Tát Bi Trí rộng sâu. Theo sử liệu được trình bày như trên, khởi điểm của Phật Giáo Đại Thừa vào hơn 100 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Có thể cho rằng những kinh sách phật giáo đại thừa đã được kết tập từ thời điểm này, phát triển mạnh về sau và được NgàiLong Thọ sưu tập, kiến giải nhằm bảo tồn tư tưởng then chốt của Phật giáo mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã để lại vì theo Ngài Long Thọ những tư tưởng này đang gặp nguy cơ thất lạc qua xu hướng kinh viện triết học của một số trường phái tiểu thừa thời đó (khoảng 700 phật lịch). Quan điểm về kinh điển đại thừa không phải có từ thời ngài Long Thọ mà đã tồn tại và phát triển trước đó (từ Đại Kiết Tập lần 2) cũng được sử gia Kimura Taiken tán thành khi cho rằng “Long Thọkhông phải là nhà biên tập kinh điển Đại thừa, mà chỉ là nhà chú giải những kinh điển Đại thừa đã có từ trước để phát động một phong trào nghiên cứu Đại thừa mà thôi.” (Taiken: 1986:3) Nhiều nghiên cứu gia về phật học nhận xét rằng Ngài Long Thọ là một trong những người có công nhất trong việc chấn hưng tư tưởng phật giáo đại thừa. Chính vì thế, “Người ta xem sự xuất hiện của Long Thọ là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong tranh tượng, Long Thọ là vị duy nhất sau Phật Thích-ca được trình bày với chóp trên đỉnh đầu (nhục kế), một dấu hiệu của một Đại nhân. Long Thọ cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Truyền thống Mật giáo cũng xếp Ngài vào 84 vị Đại thành tựu.”(Wikipidia).

        4. Thiền tông với Kinh điển Đại thừa

          Một số kinh điển đại thừa được một số chư tổ và các vị thiền sư nổi tiếng sử dụng như một trong những yếu chỉ của tông pháp, kim chỉ nam cho con đường tu chứng qua thiền định. Sau đây là bốn bộ Kinh được giới thiền tông truyền tụng: Kinh Lăng Già, King Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Hoa. Kinh Lăng Già được xem như là Kinh truyền tâm ấn của các chư tổ thiền Tông: Tổ Bồ-đề-đạt-ma sau khi truyền y bát cho Tổ Huệ Khả, Ngài còn trao cho bốn quyển kinh Lăng-già để làm tâm ấn. Cho nên Kinh Lăng-già trong nhà Thiền được coi là một bộ kinh để tâm ấn. Trong bốn bộ kinh này, Kinh Lăng-già, Kinh Lăng nghiêm và Kinh Pháp Hoa cũng đều đề cập đến Pháp tu Niệm Phật Tam Muội hoặc cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Trong Kinh Lăng Nghiêm chương năm, 25 vị bồ Tát tự giải cách tu chứng vào càn tuệ địa, Bồ Tát Đại Thế Chí (niệm Phật viên thông) nói, ‘Chỗ bản nhân của con lấy niệm Phật tâm chứng vô –sinh –nhẫn. Nay ở cõi này nhiếp người niệm Phật về Cõi Tịnh Độ.” (trang 313) Trong khi đó trong Kinh Pháp Hoa ở phẩm 23 (Dược Vương Bồ Tát Bản Sự) Ðức Phật Thích Ca đã đề cập đến cõi Cực Lạc "Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Ðà Phật cùng chúng Bồ Tát vây quanh, mà sinh trên toà báu trong hoa sen."

          5. Nhân vật thời đại và pháp môn niệm phật

            Những chủ thuyết xiển dương pháp môn niệm Phật đều do bởi những thánh nhân kiệt xuất mà hàng Thanh Văn không thể sánh kịp. Quyển luận , “Quê Hương Cực Lạc” luận về thân thế và đạo nghiệp của Bồ Tát và Chư Thánh tăng cho thấy kiến thức vô song của các ngài về Phật học và nhiều lãnh vực khác. Chẳng hạn như Ngài Long Thọ, Ngài Mã Minh, Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân vv là những bậc thánh thấu rõ kinh tạng, trí huệ như hải.

            5.1 Bồ Tát Long Thọ là người học thức uyên thâm, thông đạt kinh sách Phật giáo lẫn những tôn giáo khác vì thế ngài một thân làm Tổ Sư của tám tông Phật Giáo (cũng là tổ 14 của thiền tông), mà vẫn phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ và xiển dương pháp môn Niệm Phật.

            5.2 Ngài Mã Minh Đại Sĩ, tổ sư 12 thiền tông cũng là người xiển dương pháp môn niệm Phật xác quyết: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của Như Lai”. Ngài Mã Minh không chỉ là một đại diễn giả đầu tiên về giáo nghĩa và triết lý Đại thừa, thuộc vào hạng các nhà tư tưởng tiên phong sâu sắc, có nhiều đóng góp cho lịch sử phát triển tư tưởng Phật giáo, mà còn là là một nhà thơ lớn, một nhà biện tại vô ngại, một tác gia lớn và là một nhạc sĩ. Phần lớn các học giả Phật giáo phương Tây biết đến ngài Mã Minh qua trường ca “Phật Sở Hành Tán” S. Buddha-carita-kāvya), thi phẩm nổi tiếng về cuộc đời đức Phật, được viết bằng thơ Sanskrit. Với thiên tài thi ca (poetical genius) Sanskrit vô tiền khoáng hậu của ngài Mã Minh đã góp phần đưa văn học Sanskrit Phật giáo đến đỉnh cao văn chương và triết lý.

            5.3 Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân khai tổ Tịnh Độ Tông Nhật bản. Ngài nghiên cứu tường tận về mọi tông phái Phật giáo và đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất. Không những thế, ngài chứng nghiệm và thông tuệ một số tông pháo khác như thiên thai tông (tu thiền, được Tổ Hoàng Viên có ý trao truyền tổ vị cho ngài nhưng ngài tư chối), mật tông trước khi nhập thất chuyên tu Tịnh độ, niệm Phật vãng sanh.

            5.4 Trí Giả Tổ Thiên Thai Tông; Hoằng Nhứt Tổ Sư Luật Tông và nhiều thánh tăng khác đều có trí tuệ vô tiền khoáng hậu đều cầu cầu vãng sanh Cực Lạc.

            6. Đối tượng giáo hóa của Đức Phật

              Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi đắc đạo quả cao thượng Chánh đẳng, Chánh giác, đã trải qua hơn 49 năm hoằng dương Phật pháp trên khắp đất nước Ấn độ, cứu độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đạo Phật là đạo trí tuệ, từ bi và bình đẳng, không phân biệt cao thấp hay giàu nghèo. Vì thế, đối tượng giáo hóa của Như Lai gồm đủ thành phần trong xã hội từ tầng lớp quí tộc cho đến những con người bần cùng nhất, từ người hiền lành cho đến kẻ xấu ác. Chung quy lại, những người theo Đạo giải thoát của Như Lai gồm người tu xuất gia và người tu tại gia. Người tu xuất gia là những người ở trong tăng đoàn theo chân Bổn sư học đạo. Đa số họ được Đức Phật truyền pháp tu thiền, trì giới để đạt đạo quả. Trong khi đó những người khác, chẳng hạn như hoàng hậu Vi Đề Hy, không theo tăng đoàn thì làm sao có thời gian để tu thiền, trì giới như các đệ tử của Đức Phật. Hơn nữa, những người như hoàng hậu Vi Đề Hy chiếm số lượng vượt trội hơn nhiều so với các tỳ kheo trong tăng đoàn của Đức Phật. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là nếu đối tượng cứu độ chúng sinh của Đức Phật chỉ bó hẹp trong tăng đoàn, hay những cư sĩ tại gia có duyên tu theo Tứ Diệu Đế như các vị tỳ kheo của Như Lai thì không đúng với mục đích cao thượng của Thế Tôn, cứu độ chúng sanh và cũng không thể gọi đạo phật là đạo từ bi, bình đẳng được. Vì sao, Nhục thân của các vị tỳ Kheo, đệ tử của Đức Phật được nuôi dưỡng từ những phần thức ăn của đại chúng trong khi đó, bản thân Đức Phật là do cha mẹ của ngài mang nặng đẻ đau và nuôi dưỡng. Vì thế trước tiên để trả hiếu cho cha mẹ, Đức Phật dùng phương tiện gì để độ? Đối với Tịnh Phạn, Vua cha của Đức Phật và những người thuộc họ Thích, theo kinh, Thế Tôn giảng pháp môn niệm thánh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT cầu vãng sanh Tây Phương Cực lạc. Hoặc đối với Hoàng hậu Vi Đề Hy và Vua Tần Bà Sa La, những người đầu tiền cúng dường cho Đức Phật và tăng đoàn khu vườn Trúc Lâm để Tịnh tu, Đức Phật giảng pháp quán cõi cực Lạc, hoặc quán tưởng Phật A DI ĐÀ cầu vãng sanh về nước của Ngài vv. Nói một cách khác, đối tượng giáo hóa của đức phật là toàn thể chúng sinh.

              7. Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi

                Xá lợi có thể được xem như là bằng chứng nữa cho thấy công phu niệm Phật của người niệm Phật đã thành ‘quả’ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Nhiều bằng chứng niệm Phật lưu xá lợi có thể tìm thấy trong quyển “Niệm Phật lưu xá lợi của Cư Sĩ Tịnh Hải. Gần đây nhất, chính Cư Sĩ Tịnh Hải đã để lại hàng ngàn viên xá lợi ngay sau lễ trà tỳ vào sáng thứ Hai, 01 tháng 03 năm 2010 tại nhà quàn Peek Family Home phòng số 2 - địa chỉ 7800 Bolsa Ave, Westminster (714)893-3525, dưới sự chứng minh của thượng tọa Thích Thiện Long, chùa Phật Tổ ở Long Beach.

                8. Hợp thời

                  Kinh Đại Tập dạy: "Đời mạt pháp ức ức người tu hành hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào niệm Phật mới thoát khỏi sanh tử".

                  Đúng vậy, Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm mươi lăm bốn (2554). Như vậy, hiện chúng ta đang ở thời mạt pháp, mà càng đi sâu vào thời mạt pháp thì đức trí chúng sanh càng hạ liệt.

                  9. Vì đại chúng

                    Theo Pháp môn Tịnh độ, chúng ta phải ‘thực hành bồ tát đạo’, tự độ, độ tha. Tâm lượng bao trùm khắp pháp giới. Niệm phật tri ân, niệm phật giải oán, niệm phật để giải thoát mình và chúng sanh, niệm phật để thân tâm an lạc, gia đình hạnh phúc, xã hội bình an vv.

                    Tâm Tịnh Cẩn Soạn

                    Gửi ý kiến của bạn
                    Tắt
                    Telex
                    VNI
                    Tên của bạn
                    Email của bạn
                    25/03/2022(Xem: 6005)
                    Nhân kỷ niệm Ngày đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và hỗ trợ chư Tăng tu hành nơi xứ Phật đang trong lúc khó khăn, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú chung quanh khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
                    25/03/2022(Xem: 4399)
                    Nhân Duyên Tâm Luận Tụng Thánh Long Thọ Ấn ngữ:pratītyasamutpāda hṛdaya kārikā Tạng ngữ: rten cing 'brel par 'byung ba'i snying po tshig le'ur byas pa
                    25/03/2022(Xem: 3140)
                    Hành giả phải phát khởi các giai đoạn động lực và hành vi vì lợi lạc của tất cả các bà mẹ hữu tình, bao la như không gian, tôi phải thành tựu quả vị giác ngộ viên mãn vô song, và vì mục tiêu này mà tôi nên lắng nghe giáo pháp cao quý. Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi. Bài pháp Tứ Diệu Đế này là khuôn khổ của Phật pháp.
                    25/03/2022(Xem: 4381)
                    Hãy phát khởi động lực và hành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian, tôi phải thành tựu giác ngộ vô song và hoàn hảo. Người ta phải nghĩ rằng mục tiêu chánh của việc lắng nghe giáo pháp là để tu tập. Hơn nữa, ý nghĩa của việc tu tập là để giúp tâm thoát khỏi phiền não hay vọng tưởng, và đó là ý nghĩa của việc thực hành Pháp. Vì vậy, động lực tích cực và hành vi tích cực là điều cần thiết ở đây, bởi vì khi càng có động lực và hành vi tốt đẹp hơn, thì việc tu tập Pháp sẽ trở nên hữu hiệu hơn.
                    25/03/2022(Xem: 3874)
                    Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả, vì ước nguyện thành tựu quả vị hoàn hảo và giác ngộ viên mãn, vì lợi lạc của tất cả bà mẹ hữu tình, rộng lớn như không gian bao la. Hãy điều chỉnh động lực lắng nghe giáo pháp bằng tư tưởng đặc biệt này.
                    11/03/2022(Xem: 4419)
                    Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên? Câu trả lời theo sử Phật Giáo: đó là bài Kinh vô ngôn, nội dung bài Kinh là lòng biết ơn. Lúc đó, Đức Phật đã bày tỏ lòng biết ơn cây Bồ Đề (cây Pippala), nơi Ngài ngồi dưới cội cây và được che mưa nắng nhiều tuần lễ cho tới khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Một điểm đặc biệt: biết ơn nhưng không dính mắc, vẫn luôn luôn nhìn thấy thế giới này trong thực tướng vô ngã.
                    11/03/2022(Xem: 6085)
                    Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Bát cháo sữa của nàng thôn nữ Sujata tuy giá trị rất nhỏ, nhưng mang lại lợi ích cho nhân loại và quả địa cầu là rất lớn, vì nhờ đó mà Sa-môn Gautama không chết do kiệt sức. Những giúp đỡ nho nhỏ, từ thiện nho nhỏ, đôi lúc có giá trị lớn & có ý nghĩa lớn. Học theo gương hạnh của Sujata, chúng con, chúng tôi nguyện làm tất cả việc thiện bằng các điều kiện có thể, nhằm xoa dịu phần nào sự khốn khó của tha nhân trong thời buổi nhiều khó khăn này..
                    08/03/2022(Xem: 11503)
                    Qua thông tin của truyền thông đại chúng ( các đài truyền Úc và Vietface tivi) suốt 2 tuần qua tiểu bang New South Wales và Queensland, Úc Châu, đã hứng chịu những cơn mưa như trút nước chưa từng có trong nhiều thập niên qua, từ đó dẫn đến những cơn lũ lụt lớn, khiến cho hàng nghìn người phải sơ tán và nước lũ cũng cuốn trôi nhiều tài sản, gia súc, phá hủy các tuyến đường giao thông giữa 2 tiểu bang miền đông nước Úc này. Riêng tại New South Wales, có hơn 11 vùng hiện bị ngập nước là: Chipping Norton, East Hills, Georges Hall, Holsworhy, Lansvale, Milperra, Moorebank, Warwick Farm, Sandy Point, Pleasure Point, Picnic Point.Trong khi tại tiểu bang Queensland có hơn 18.000 ngôi nhà ở phía đông nam Queensland được cho là đã bị ngập lụt, và gần 60.000 ngôi nhà khác trên toàn khu vực bị mất điện. Tính cho đến giờ này chúng tôi đang viết thư ngỏ này vào 9 giờ sáng 8/3/2022, tiểu bang Queensland có 13 người chết và NSW có 4 người tử vong vì trận lụt kinh hoàng này.
                    05/03/2022(Xem: 4247)
                    Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
                    04/03/2022(Xem: 3812)
                    Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
                    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
                    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
                    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

                    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
                    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
                    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
                    the Land of Ultimate Bliss.

                    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
                    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
                    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
                    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
                    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
                    Website: http://www.quangduc.com
                    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
                    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
                    [email protected]