Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Ký Ức Một Mùa Phật Đản

02/05/201211:23(Xem: 7750)
Từ Ký Ức Một Mùa Phật Đản

Cho đến bây giờ, nhắc đến mùa Phật Đản 2508 (1964) rất ít ai còn nhớ cảnh sắc huy hoàng và quy mô ngày ấy, nhất là lứa “U 50”được xem là ‘nhỏ tuổi” nhất tính từ thời điểm ấy.

Đặc biệt là hình ảnh lễ đài tại bến Bạch Đằng, bên bờ sông Sài gòn. Trong rất nhiều cố gắng tìm kiếm từ các nguồn thông tin, hiện chỉ có ba tấm hình trong ngày lễ ấy và hai tấm hình đoàn thiếu nữ Gia Đình Phật Tử đứng phía phải đường Nguyễn Huệ, hướng nhìn từ lễ đài, còn đang tồn tại trên mạng.

GDPT_Hinh_nghanh_nu_tai_le_Phat_Dan_1964_2__Goc_phai_Nguyen_Hue_nhin_tu_phia_Le_Dai_

GDPT Hình nghành nữ tại lễ Phật Đản 1964 (Góc phải Nguyễn Huệ nhìn từ phía Lễ Đài)

GDPT_Hinh_nghanh_nu_tai_le_Phat_Dan_1964_goc_phai_Nguyen_Hue_nhin_tu_phia_Le_dai_

GDPT Hình nghành nữ tại lễ Phật Đản 1964 (góc phải Nguyễn Huệ nhìn từ phía Lễ đài)

Riêng hình lễ đài thì hầu như hầu như rất ít, ngoại trừ tấm hình màu này được sưu tầm từ tài liệu của báo ảnh “Thế Giới Tự Do” mà tôi may mắn tìm được từ cuối năm 2011 vừa qua.

Le_Dai_Phat_Dan_1964_tai_Ben_Bach_Dang_Saigon__anh_mau_

Lễ Đài Phật Đản 1964 tại Bến Bạch Đằng Sài Gòn

Le_dai_Phat_dan_1964_tai_Sai_gon_duong_Nguyen_Hue

Lễ Đài Phật Đản 1964 tại Sài gòn Đường Nguyễn Huệ

Vì vậy, tiện thể nay tôi xin công bố tấm ảnh đen trắng cùng chủ đề ấy trong tư liệu gia đình còn lưu giữ, dù đã xuống cấp trầm trọng, không còn rõ lắm nhưng hy vọng từ nay nó sẽ hiện diện trên mạng để các thế hệ sau được tường tận vì nó lưu giữ rất nhiều kỷ niệm của tôi và gia đình, rất muốn được chia sẻ cùng người đọc.

Le_dai_Phat_dan_1964_tai_ben_Bach_Dang_Saigon_anh_den_trang-Tu_lieu_gia_dinh_DKT_

Lễ Đài Phật Đản 1964 tại Bến Bạch Đằng Sài gòn (ảnh đen trắng-Tư liệu gia đình DKT)

Đây là tấm hình phụ thân người viết chụp từ chiếc máy mượn của người thân, trong buổi chạng vạng tối, lất phất mưa nhẹ ngày mùng 10 tháng 4 âm lịch. Tức trước 4 ngày buổi lễ chính thức sẽ diễn ra nơi đây. Đính kèm bên đây là vài hình ảnh của buổi lễ ấy được sưu tầm trên mạng như vừa nói trên.

Như chúng ta từng biết, lễ đài được khởi công từ hơn một tháng trước, do ngành công binh chế độ Sài gòn thực hiện, hoàn thành đúng ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch. Công trình rất kỳ công và bề thế. Lúc đó nghe những vị lớn tuổi nói rằng làm như vậy cũng phải thôi. Người dễ cảm thì cho rằng để xoa nhẹ vết đau mà Phật giáo Việt Nam (PGVN) đã vừa trải qua khốc liệt một năm trước đó!

Le_Phat_dan_1964_Goc_Bach_Dang_

Lễ Phật Đản 1964 (Góc Bạch Đằng trước lễ đài)

Le_Phat_dan_1964_goc_Ham_Nghi-Hai_Quan_

Lễ Phật Đản 1964 (góc Hàm Nghi - Hải Quan)

Le_Phat_dan_1964_goc_Nguyen_Hue_

Lễ Phật Đản 1964 (góc Nguyễn Huệ)

Vị trí lễ đài xoay lưng với sông Sàigòn, ngay bến Cầu Kiệu. Mặt hướng thẳng về tòa đô chính (nay là Ủy ban nhân dân Tp.HCM) với con đường Nguyễn Huệ rộng thoáng. Phía trái trước mặt là con đường Hàm nghi và phía phải là đường Tự do (nay là Đồng Khởi). Con đường cắt ngang mặt lễ đài dành cho diễu hành các phái đoàn Phật giáo và xe hoa là Bạch Đằng (nay là Tôn Đức Thắng) được kết nối từ phía Cầu Quay (Cột Cờ Thủ Ngữ - nay là cấu Khánh Hội) trải dài cho đến bùng binh Trần Hưng Đạo ngày nay mà trước đó một năm là tượng hai Bà Trưng (nhưng người dân cho đó là tượng hai mẹ con bà Ngô Đình Nhu).

Như vậy từ trên nhìn xuống đó sẽ là sơ đồ toàn cảnh lễ đài được kết nối với những cung đường chung quanh, tạo thành hình rẽ quạt rất chuẩn.

Đối diện bên kia sông Sài gòn là Cây Bàng (Thủ Thiêm) quê tôi. Nơi sinh ra và lớn lên, tuổi thơ tôi cũng kịp trải qua một mùa Phật đản kinh hoàng, bàn thờ Phật gia đình phải đem giấu vào buồng ngủ, ai có hỏi thì không dám xưng là Đạo Phật. Hằng ngày từ bên này sông vọng qua tiếng đạn xéo, tiếng người la hét thất thanh và những tiếng gầm rú của xích sắt xe tăng đàn áp các cuộc biểu tình của những người con Phật hiền lành.

Cho đến một buổi sáng sớm, khi được thân phụ dẫn theo đi uống cà phê, nghe người lớn nhỏ to với nhau “Ông Diệm bị đảo chánh”. Từ đó về sau tôi lại được bà và mẹ dẫn đi chùa thường xuyên trở lại và mỗi chiều hiên ngang ra bàn ông thiên đốt nhang, hình ảnh đức Phật được trang trọng ngự trị lại giữa nhà.

Sau tết, trưa hè rủ nhau tắm sông, nhìn qua bên kia sông thấy người ta đang dựng một trụ sắt to cao, không ai biết đó là lễ đài Phật Đản, anh em chúng tôi kháo nhau đủ thứ hình tượng (sau này mới biết đó là lấy cảm hứng từ trụ đá của A Dục Vương).

Khi lễ đài hoàn chỉnh, đèn đuốc được thắp sáng cả một khúc sông, sáng luôn tới bên kia sông quê tôi. Lúc ấy Thủ Thiêm chưa có điện và nước ống. Thì anh em chúng tôi nài nỉ xin ba mẹ cho được qua xem. Sau hai ngày lấy điểm cao bài học về làm điều kiện để được đi, thân phụ tôi cũng vừa đi làm về bảo chúng tôi tắm rửa sạch sẻ để ông dẫn qua bến Bạch Đằng xem. Mừng lắm!

Từ nhà đi bộ lên bến đò Cây Bàng không xa, bước lên đò bên kia là nhà hàng Mỹ Cảnh, bước thêm chừng mươi bưới là đã đến lễ đài. Tôi choáng ngợp với cảnh sắc huy hoàng chưa từng thấy. Chỉ vài ngày nữa thôi khu vực này sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt. Tôi đâu ngờ rằng với tôi chỉ chừng ấy thôi đã là diễm phúc dài lâu mà có lẽ đến bây giờ nhiều người rất mong muốn trong đời mình sẽ có một lần như vậy.

Khi về lại nhà, anh em chúng tôi chạy khoe khắp xóm, kéo nhau ra bờ sông tay chỉ về bên kia, nơi có lễ đài đang rực sáng một vùng sông nước rằng mình đã được tới gần, rằng tượng Phật sơ sinh bự lắm (cao 8 mét nặng ba tấn)!

Rồi tối 14 tháng tư âm lịch, người dân Cây Bàng Thủ Thiêm chúng tôi lại được cái diễm phúc nhìn no con mắt những ánh sáng hoa đăng lung linh khắp mặt sông trong những chiếc đèn búp sen bằng nhựa đủ màu rất đẹp, chứng tỏ nó đã được chuẩn bị từ lâu. Nhìn sang bên kia sông từng chiếc xe hoa chạy qua có âm thanh nhạc đạo bi hùng như chưa từng có một mùa pháp nạn đau thương.

Sáng sớm hôm sau, những búp sen này trôi dạt, tấp vào bờ sông, trải dài từ chợ Cây Bàng xuống cho tới cầu 13, chen lẫn với từng khóm lục bình cũng đang trổ bông tím, tạo nên cảnh sắc rất đặc biệt.

Bà và Ba Má tôi cho đó là chư thiên tung hoa đón mừng đức Phật đản sinh. Những chiếc đèn hoa sen bằng nhựa này anh chúng tôi lượm và cất giữ rất nhiều năm sau, và dùng nó trang trí cho các huyền môn (bây giờ gọi là cổng chào) và lễ đài Phật đản xóm ấp của tôi.

Sáng hôm sau cả khung trời Sàigòn và ngay khu vực lễ đài là những âm thanh, màu sắc tưng bừng. Vang vọng qua bến sông này, nơi tôi đang đứng thèm thuồng nhìn về bên ấy với đủ thứ tưởng tượng trong đầu. Trên bầu trời thì nhiều chiếc máy bay uốn lượn tung làn khói ngũ sắc hòa lẫn với một rừng bong bóng đang tung tăng chen nhau vươn thẳng trời cao.

Như vậy, trên trời, dưới đất, và cả mặt sông, toàn là âm thanh và màu sắc, thử hỏi có còn mơ ước nào hơn với người con Phật mỗi năm hân hoan chào đón ngày đức Thế Tôn Đản sinh!

Thật không có khung cảnh nào hơn thế mà tôi từng chứng kiến. Xứng đáng với tầm vóc và tuyên ngôn: Một tôn giáo lớn luôn song hành cùng dân tộc suốt hai ngàn năm!

Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng này làm hành trang cất bước.

Giờ đây, tuồi đời ngày một chồng chất mà niềm tự hào, hoài vọng ấy vẫn còn nguyên như thưở tinh khôi. Mong rằng những thế hệ người con Phật ngày sau sẽ thêm một lần chứng kiến ngày lễ Phật Đản như vậy, như thuở thiếu thời của tôi, thời của nhiều khuyết duyên nhưng cũng lắm tự hào.

Trích hồi ký: Nửa Thế kỷ độc hành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4713)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5020)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4512)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3742)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7554)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12145)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]