Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm tình trong đêm thắp nến nguyện cầu Phật đản

25/04/201201:09(Xem: 9221)
Tâm tình trong đêm thắp nến nguyện cầu Phật đản
phat-dan-sanh-01

Tâm tình
trong đêm thắp nến
nguyện cầu Phật đản

Thích Minh Tuệ


“Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gởi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn…”

Tiếng hô chuông trầm hùng thanh thoát ngân lên thâu nhiếp hàng trăm con tim, tâm khảm trong thời khóa “an tọa thiền trung”,chánh niệm và quán tưởng. Đã lâu lắm rồi, hơn cả 15 năm, tôi mới được hòa mình trong không gian trầm lắng, trang nghiêm, thiêng liêng như đêm nay, đêm đốt nến nguyện cầu trong Lễ Hội Phật Đản Quốc Tế PL 2556, Wesminter Mall, Nam Cali, Hoa Kỳ.

Ngồi kề dưới chân tượng đài Đức Thích Tôn, bao nhiêu kỷ niệm, ký ức theo dấu chân xưalại hiện về trong tâm thức. Hoa lá kết trên lễ đài gợi về cảnh đóa hoa vô ưu nở giữa vườn hoa Lâm Tỳ Ni rực rỡ, lôi cuốn bước chân Hoàng Hậu Ma Gia thưởng ngoạn và vườn cỏ trải dài khiến mọi người thoát ra ngoài nhịp điệu hối hả của cuộc sống, trở về hòa hợp với thiên nhiên nhẹ nhàng, thư giãn. Hoa bất diệt nở trên vườn hoa sinh diệt. Hồ nước trong xanh nơi tắm Thái Tử Tất Đạt Đa như đài gương sáng soi bóng người hành hương cho ta biết nên có cuộc “tẩy trần”,rửa sạch bụi đường, “sái tịnh”.Đầu đêm của Mỹ châu là buổi sáng Á Châu. Vào một buổi sáng tháng Tư cách đây hơn 2500 năm, địa cầu tinh tú như ngừng chuyển động, bầu trời trong lành, hoa tươi khoe sắc e ấp, nâng niu đôi chân một bậc vĩ nhân vào cõi đời với bao điềm lành hiển lộ :

“Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc,
Ba ngàn thế giới đón như Lai”.

Tôi ngồi lắng nghe hơi thở và chiêm ngưỡng tượng Phật sơ sinh. Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật, như “tùng địa dõng xuất”từ trong đất mà bao nhiêu công đức lành nảy sinh ra, thể tánh Như Lai thanh tịnh, sáng suốt, tròn đầy có sẵn nơi mỗi chúng ta cần khai thị ngộ nhập trong hành trình nhân thế, một bậc điều ngự trượng phu, khéo điều phục chế ngự, một bậc khai đường chỉ lối và để lại con đường, mỗi hành giả tích cực nhập, dấn thân vào dòng đời.

Bao nhiêu mùa Phật Đản trôi qua và tuổi đời chồng chất nhưng có thật sự là Ta vững bước giữa cõi đời đầy biến động, nhuần thắm nơi Ta và mang đến cho đời nhiều nội dung Phật chất? Bên cạnh Ngài ta tự thấy mình nhỏ nhoi, tầm thường và đáng hổ thẹn. Ngài có tất cả trong ngai vị quyền quý cao sang, rồi giã từ tất cả vì đạo nghiệp và độ sanh vậy sao ta biết bao nhiêu lần còn ái luyến, chấp ngã, tính toán xây đắp cho bản thân mình từ hình thức này đến hình thức khác, nhiều khi ngụy biện, tự lừa dối bản thân và lừa dối mọi người? Ngài rời xa mọi dục lạc trong hoàn cảnh đầy đủ nhất, tinh tiến tu tập, tầm cầu chân lý, vậy còn ta lười biếng giải đãi, tìm kiếm mọi kẻ hở, cơ hội để có phần hưởng thụ và thỏa mãn? Ngài chịu bao nhiêu hy sinh, gian khổ để tìm ra được Ánh Đạo Vàng và con đường giải thoát, thế còn ta không dốc chí đi theo đường xưa mây trắngcho đến cuối đoạn đưởng, trong khi công việc của chúng ta so với Ngài đã quá nhẹ nhàng, đơn giản, phải vậy không ?!

Kính bạch Như Lai Thế Tôn,

Trong đời con biết bao nhiêu lần con đối diện và tâm tình với Ngài về những tâm tư sâu xa thầm kín nhất trong con mà có những lúc con không biết tâm sự cùng ai. Đã có lúc đời con tưởng như đến bước đường cùng, bất lực trước dòng đời đẩy đưa nghiệt ngã chính Ngài đã hướng con quay về nương tựa, núp bóng từ bi, xuất gia tu học lìa xa phiền não, một phương trời sáng rộng mở. Rồi bao nhiêu lần con băn khoăn lựa chọn giữa việc tịnh tu trên đồi núi, mõ sớm chuông chiều để nguôi ngoai, lắng tan niềm tục luỵ với việc đến nơi đô hội học hành bồi dưỡng, tạo duyên tu học cho bao người khác nhưng oái ăm thay, con tự cảm thấy phiền não trong con cơ hồ tăng dần cho dù kiến thức Phật Pháp của con có vẻ tăng trưởng?! Có lúc con phân vân việc tiếp tục xuất gia hay trở về nếp sống tại gia khi song thân thiếu người phụng dưỡng và hiếu đạo chưa tròn, chính Ngài đã khai thông tư tưởng và rồi nhân duyên xoay chuyển khiến cho con không phải tự trách bổn phận cuộc sống nơi mình mãi mãi. Lúc đầu tiên được viếng thăm Thánh Tích, con đã có những đêm kinh hành, tụng niệm quán tưởng suốt đêm không ngủ quanh Tháp Đại Giác và cội Bồ Đề, đứng tần ngần nhìn đống gạch đổ nát tại Thành Ca Tỳ La Vệ mà nhớ về một thời vang bóng, chợt nhớ đến bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan :

Tạo hóa gây chi cuộc hí truờng
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, ngưòi đây luống đoạn trường.

Có lúc con đã bùi ngùi bật khóc nơi rừng Câu Thi Na trầm tịch trong tiếng xạc xào của Sa La với hình ảnh Như Lai nằm yên thị tịch. Có phải con vô duyên kém phước nên gặp Ngài trong sự trễ tràng, khi Ngài ra đời con đang trôi nổi trầm luân cảnh giới nào? Phải như con được gặp Ngài trọn vẹn, tu học dưới sự bảo ban, dắt dẫn chở che của Ngài thì ắt hẳn con đã không phải nghi ngờ, lui sụt, luôn tìm được nguồn động lực và lời khuyên bảo kịp thời để có thể vượt qua bao nhiêu nghịch cảnh khó khăn, hướng đến mục đích cuối cùng…

Con lại thả tâm tư theo tiếng chuông ngân vang, theo tiếng hô chuông đi qua các miền ký ức và suy tưởng :

“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”

Ngài hẳn nhiên không phải xót xa trăn trở như tâm sự con trải qua cho dù Ngài cũng từng ở trong hoàn cảnh ba lần can gián Lưu Ly Vương tàn sát giòng họ Thích nhưng không thành? Con hiểu nếu chỉ là nước mắt thì không giải quyết được vấn đề, xưa nay nước mắt chúng sanh nhiều hơn biển cả và chúng sanh vẫn trôi nổi ngập chìm trong đó.

Máu, nước mắt, đau thương, tang tóc vẫn đang diễn ra hàng ngày khắp nơi trên thế giới: thiên tai, sóng thần, lò nổ hạt nhân, chiến tranh, khủng bố, bạo tàn, bất công, áp bức, dịch bệnh,... Bao vùng trời xám xịt với tham lam, hận thù, tị hiềm, tranh đoạt. Ngay cả trong nội bộ Tăng Đoàn cũng có những biểu hiện của nghi kỵ, chê bai, chia rẽ lẫn nhau. Tại sao Liên Hiệp Quốc vẫn đang trân trọng tổ chức Lễ Vesak, kỷ niệm Đản sanh của Từ Phụ trang nghiêm hoành tráng vào mỗi năm kể từ năm 1999 và được xem như ngày lễ hội văn hoá tôn giáo thế giới, Phật Giáo được xiển dương giảng dạy trong nhiều đại học khắp thế giới, hàng trí thức không ngớt lời ca tụng, hình ảnh Ngài Đạt Lai Lạt Ma chinh phục biết bao nhiêu trái tim nhân loại thế mà bóng tối si mê, khổ đau, sanh tử lặn hụp vẫn còn nhan nhản và triền miên khắp nẻo đường kiếp sống. Phải chăng biệt nghiệp và cộng nghiệp chúng sanh quá sâu dày, không dễ tháo gỡ một lần cho xong?

Đêm nay đây có được giây phút ngồi lặng yên cùng Tăng Già và Phật Giáo đồ quốc tế, đó là phước duyên hy hữu, lớn lao, trùng trùng duyên khởi, đúc kết từ công sức của bao nhiêu người suốt cả năm trời chuẩn bị và liên tục từng bước tiến hành. Con sâu sắc niệm tưởng tứ trọng ân. Đức chúng như hải, uy lực của đại chúng thật là lớn lao, tự bản thân con đã cảm nhận được thiêng liêng nhiệm mầu trong đêm đốt nến nguyện cầu và tìm thấy bình an hạnh phúc :

Hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh
Hạnh phúc thay giáo pháp cao minh
Hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp
Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu.

Tâm tình, kỷ niệm thiêng liêng đêm nguyện cầu hôm nay là hạt giống, chất liệu hành trang quý giá, con mang thêm nguồn năng lực vào đời. Con nhận ra rằng Thế Tôn chưa hề rời xa con. Lời dạy Như Lai chợt vọng về : “phụng sự chúng sanh là cúng dường mười phương chư Phật”, “Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, “Hãy tự mình đốt đuốc lên mà đi, hãy tinh tiến lên để giải thoát, Như Lai chỉ là người Thầy dẫn đường”.Gia tài Pháp bảo Như Lai đã trao truyền, lẽ nào con cứ mãi làm kẻ cùng tử và khách phong trần lênh đênh, lạc lối? Nhớ tưởng đến Ngài không phải chỉ biểu hiện nội trong đêm nay mà trải qua từng sát na, hơi thở, nhịp mạch cuộc sống. Mỗi người hãy là một Sứ Giả Như Lai, tinh tấn tu tập hành trì, an trụ trong niềm hạnh phúc chân thật và góp phần cho Từ Quang lan toả, Pháp luân thường chuyển, như tiếng chuông đêm nay cảnh tỉnh xoá tan niềm tục lục, đưa khách trần ai về nẻo giác, làm vơi đi nỗi khổ niềm đau, xây dựng thế giới chân thiện mỹ, giúp cho nhân sinh được an lạc, hòa bình, hạnh phúc, giải thoát. Ngọn nến hôm nay là truyền đăng tục diệm là tuệ đăng thường chiếu, là ánh hào quang khi sao Mai ló dạng, trong đêm thứ 49 của Bồ Tát Tất Đạt Đa dưới cội Bồ Đề, chiếu rọi khắp Đông Tây mãi mãi đến ngàn sau :

Từ Tôn in vết thần chân lý
Sáng rọi thanh xuân vạn cõi lòng.

Cali, đêm thắp nến nguyện cầu, Phật Đản PL 2556

Mời Xem Hình Ảnh Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế PL.2556


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4933)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5065)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4687)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]