Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại lễ Vu Lan tại Nhật Bản: Nguồn gốc, ý nghĩa và phương cách tổ chức

30/09/201008:31(Xem: 12063)
Đại lễ Vu Lan tại Nhật Bản: Nguồn gốc, ý nghĩa và phương cách tổ chức
Lễ VU LAN hay “BON MATSURI” (Bon: Bồn, Matsuri: LỄ), là một trong những ngày đại lễ Phật Giáo tại Nhật Bản. Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật, nhưng ban đầu chỉ dành cho triều đình và các gia đình quý tộc; về sau nó mới được phổ biến cử hành trong dân chúng.
Chữ “BON” là rút ngắn của tiếng Nhật “URABON”. Urabon, hay “Vu Lan Bồn” là tiếng Hán dịch của chữ Phạn (Sanskrit) “ULLAMBANA”, có nghĩa là “Giải Đảo Huyền” hay “Cởi trói cho người bị treo ngược”. Người Nhật còn gọi Lễ Bon hay là ngày “LỄ LỒNG ĐÈN” (Festival of Lanterns), thường được tổ chức hằng năm vào các ngày 13,14 và 15 tháng 7, hoặc có nơi vào ngày 15 tháng 8 dương lịch. Ngày nay, lễ Bon đã trở thành một trong những ngày lễ lớn, phổ thông và vui nhất tại Nhật. Trong dịp này, ngoài việc đi thăm viếng nghĩa trang, cúng lễ cầu siêu cho ông bà cha mẹ ra, người ta còn tổ chức phóng đăng (lồng đèn), và hội hè, múa hát khắp nơi.

Tục lệ của ngày lễ và nhảy múa Bon (Bon Dance) tại Nhật, bắt nguồn từ sự tích của đức Mục Kiền Liên (tiếng Nhật Mokuren; Pali: Moggallana), là một trong những vị đại đệ tử của đức Phật. Theo kinh Vu Lan, Ngài Mục Kiền Liên vui mừng nhảy múa, sau khi dùng thần thông thấy mẹ (bà Thanh Đề) thoát khỏi cảnh giới địa ngục, nhờ phước đức Ngài vâng lời Phật dạy, đã cúng dường trai Tăng và cung thỉnh chư Thánh Tăng chú nguyện siêu độ cho mẹ.

Về phương cách tổ chức ngày lễ Bon (Vu Lan) tùy từng vùng và địa phương ở Nhật, chi tiết các buổi lễ và cuộc vui có phần sai khác, song đặc tánh chung căn bản của ngày lễ này thì khắp nơi vẫn giống nhau. Để chuẩn bị cho mùa lễ Bon, dân chúng Nhật trước hết lo dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng nhà cửa và nghĩa trang tại các chùa nơi tro cốt thân nhân ông bà, cha mẹ của họ được ký thờ. Sau đó, người ta đi chợ Bon hay Bon-Ichi (Bon: Vu Lan; Ichi: chợ) để mua sắm các thức ăn, lễ vật (bông hoa, trái cây) v..v..dùng trong các ngày lễ.

Đặc biệt tại nhiều nơi, trong đêm đầu của ngày lễ Bon, nhất là ở công viên nổi tiếng Ueno, nằm giữa thủ đô Đông Kinh (Nhật Bản), hàng trăm ngàn dân chúng khắp nơi đổ dồn về công viên để trang hoàng kết hoa, treo lồng đèn, thắp sáng cả công viên. Họ ở lại đây suốt đêm với thân nhân, bạn bè, tổ chức hội hè, ăn uống, múa hát, đàn ca tưng bừng để mừng đại lễ báo hiếu Vu Lan. Trong dịp này, hàng trăm quán hàng nhỏ được người ta tạm thời dựng lên khắp nơi trong công viên để bán cho khách thập phương đủ thứ, từ bông hoa, trái cây, rau cải, đến cây dương xỉ (ferns), những con cá đỏ (red fish), và nhiều loại dế (crickets) v..v..Đây đó, người ta cũng thấy có những vị thầy bói ngồi xem quẻ, coi tướng, đoán vận mạng tương lai, hoặc phát hành cho bà con thiên hạ, đủ các loại bùa, chú làm sẵn để cầu mua may bán đắt, nạn khỏi tai qua, hay tật bệnh tiêu trừ.

LỄ RƯỚC VONG LINH THÂN NHÂN QUÁ CỐ VỀ NHÀ

Lễ Bon bắt đầu vào ngày 13 tháng 7 dương lịch, được xem như khai điển mùa Vu Lan Báo Hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ, theo truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Vào buổi tối ngày này, hàng triệu gia đình dân chúng ở khắp toàn nước Nhật, trong tay với những chiếc lồng đèn giấy màu trắng thắp sáng, tấp nập đổ dồn kéo về viếng thăm các nghĩa trang được thiết lập tại hàng trăm ngàn ngôi chùa địa phương trong thành phố, quận huyện làng xã, mà người Phật tử Nhật tin tưởng rằng những chiếc lồng đèn ấy, có thể soi sáng dẫn rước cho những vong hồn của các thân nhân quá cố, ông bà cha mẹ của họ thấy rõ đường trở về nhà viếng thăm con cháu trong ba ngày lễ Vu Lan. Ánh sáng chập chờn, lung linh tỏa ra từ những chiếc lồng đèn được khách thập phương, trước khi ra về, để lại trên mộ phần thân nhân ở các nghĩa trang, hòa lẫn với khói hương nghi ngút quyện vào không gian trong đêm khuya tĩnh mịch ở chốn thiền môn, đã tạo nên cho mọi người Nhật cái ý nghĩ như được cảm thông, sống gần gũi trở lại trong giây phút của mùa Vu Lan, với các hương hồn của những bà con, bạn bè vừa mới qua đời hay đã mất từ lâu.

Tại các vùng thôn quê, nhất là ở miền núi, người ta cầm đuốc thay lồng đèn, đến viếng nghĩa trang các chùa, để hướng dẫn, rước các vong linh về nhà. Trước nhà nào cũng có treo lồng đèn để tiếp đón các hương hồn đó. Đôi lúc tại nhiều nơi, vị gia chủ đốt lửa và nói chuyện, qua ánh sáng chập chờn, với các vong hồn, xem họ như những người đang còn sống thực sự ở thế gian này.

LỄ CẦU SIÊU CHO ÔNG BÀ CHA MẸ ĐÃ QUA ĐỜI

Sau khi làm lễ rước vong hồn của các thân nhân, từ nghĩa trang ở các chùa về nhà, người Phật tử Nhật, cũng như tín đồ các nước Phật giáo Á Châu khác, trong mùa Vu Lan báo hiếu, thường có tập tục cúng lễ cầu siêu cho các hương linh tại nhà. Tại phòng chính trong nhà trước bàn thờ Phật (tiếng Nhật: Butsudan), người ta trải chiếu, thiết bày một chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt một bài vị bằng gỗ (tiếng Nhật: Ihai), có ghi tên tuổi và pháp danh của những bà con trong gia đình đã quá vãng. Mâm cơm cúng cho các hương linh, ngoài những dĩa thức ăn đặc biệt cho người đã mất, gia chủ còn bày cúng thêm các thứ khác như khoai tây nấu với mè, một dĩa cà, bầu hay bí chiên, trái cây và bánh kẹo.

Mặc dù thuyết nhân quả của nhà Phật, kiếp sau con người sẽ chịu quả báo hạnh phúc hay đau khổ, tùy thuộc hành động thiện hay ác mà người đó đã tạo ra trong đời này; nhưng vì chịu ảnh hưởng sâu xa những lời đức Phật dạy cho Ngài Mục Kiền Liên qua kinh Vu Lan, mà dân chúng Nhật thường có tục lệ mời chư Tăng về nhà, và thỉnh cầu họ làm lễ cầu siêu cho hương linh thân nhân quá cố trong mùa lễ Bon. Phần đông Phật tử Nhật đều tin rằng nhờ sức chú nguyện tụng kinh của chư Tăng mà vong hồn ông bà cha mẹ của họ sẽ được thoát khỏi các cảnh giới khổ đau: ngã quỹ, địa ngục, súc sanh, để vãng sanh lên các thế giới an lành, hạnh phúc hơn. Trong dịp này, nhiều tín đồ thuộc các tông phái Phật giáo như Thiền (Zen), Tịnh độ (Jodo) hoặc Chân Ngôn (Shingon), thường tổ chức cúng thí thực cho loài Ngạ quỹ hay quỹ đói, tiếng Nhật gọi là “Segaki”, vì họ tin rằng thân nhân quá vãng của họ có thể đầu thai, đọa vào các cảnh giới đó. Sau buổi lễ cầu siêu, cúng thí thực, các bà con, bạn bè được gia chủ mời ở lại thọ trai.

LỄ PHÓNG ĐĂNG (LỒNG ĐÈN) ĐỂ CẦU SIÊU, TIỄN ĐƯA VONG HỒN VỀ THẾ GIỚI BÊN KIA

Vào ngày cuối cùng của Lễ Bon (Vu Lan), dân chúng Nhật tổ chức lễ tiễn đưa vong hồn ông bà cha mẹ đi về thế giới bên kia. Người ta làm những chiếc bánh bao tròn bằng bột gạo, tiếng Nhật gọi là “dango” dùng cúng trong buổi lễ, và đốt pháo trước nhà để liên hoan, cầu chúc các hương hồn vui vẻ ra đi. Phần quan trọng trong buổi lễ chia tay này, là dân chúng Nhật thường làm những chiếc thuyền lồng đèn nhỏ (lantern boats) bằng giấy, rồi thả chúng xuống ở các mặt hồ hoặc sông trong thành phố.

Đêm về, hàng trăm ngàn dân chúng ở khắp nơi trên đất Nhật, lũ lượt đi ra các bờ hồ, chen chúc nhau mua những chiếc lồng đèn nhỏ hình vuông bằng giấy, người ta làm sẵn để bán cho khách thập phương. Bên trong mỗi chiếc thuyền lồng đèn, có thắp một ngọn nến chiếu sáng dòng chữ Nhật in trên lồng đèn như sau: “Lễ tiễn đưa cácvong hồn về thế giới bên kia”. Nhiều người cẫn thận hơn, tự mình hoặc nhờ một nhà sư viết tên họ hương linh thân nhân quá cố của mình trên những chiếc lồng đèn ấy, trước khi thành kính thả chúng xuống trôi theo dòng nước tĩnh lặng trong đêm tối. Rồi không bao lâu, trên khắp các mặt hồ ngập đầy vô số những chiếc lồng đèn giấy nhấp nhô trên sóng nước, qua những ánh nến lung linh, chập chờn huyền ảo, để từ từ chúng biến mất, chìm dần cuốn trôi theo dòng nước.

Đặc biệt tại chùa Quan Âm (Kannon) ở Asakusa, trong thành phố Đông Kinh (Tokyo), vào ngày 15 tháng 8 dương lịch, lễ phóng đăng hay lồng đèn, tiếng Nhật gọi là “TORÒ-NAGASHI” được chùa tổ chức gần cầu Kototoi, bên cạnh sông Sumida để làm lễ cầu siêu cho các vong hồn các nạn nhân bị chết đuối hay những chiến sĩ trận vong trong quá khứ. Hàng trăm lồng đèn vuông bằng giấy thắp sáng, được nhiều Phật tử từ các nơi xa mang về dự lễ, thả xuống sông trôi theo dòng nước, trong khi chư Tăng Nhật tụng kinh cầu nguyện.

Tại thành phố Miyazu ở tỉnh Kyoto, dân chúng tin rằng các vong hồn đến từ biển cả, và sẽ trở về biển cả. Vì vậy, để giúp cho những hương linh được vãng sanh về thế giới cực lạc hạnh phúc hơn, vào đêm Vu Lan, 16 tháng 8 dương lịch, người ta làm lễ cầu siêu và phóng đăng (lồng đèn) tại bải biển trong vùng có chư Tăng chú nguyện. Vào dịp này, dân chúng địa phương cũng tổ chức đốt pháo bông trên một chiếc tàu thủy đậu gần bờ. Hơn một giờ sau, toàn bãi biển rực đỏ với hàng ngàn chiếc lồng đèn được đốt cháy sáng, giữa lúc thiên hạ lũ lượt kéo nhau ra về.

TỤC LỆ MÚA HÁT TRONG NGÀY LỄ VU LAN

Trong mùa lễ Bon (Vu Lan), ngoài việc lo cúng lễ cầu siêu cho hương linh thân nhân quá cố, trao đổi tặng quà giữa các bà con, bạn bè, nhân công, chủ tiệm hay khách hàng ra; dân chúng Nhật còn tổ chức hội hè, múa hát tưng bừng khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, đồng bằng lên đến cao nguyên, đất liền cũng như hoang đảo. Tục lệ múa hát tập thể trong mùa Lễ Vu Lan, tiếng Nhật gọi là “BON-ODORI” (Bon: Vu Lan, Odori: nhảy múa). Tục lệ này bắt đầu có vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ 17 (1624-1643) khi các vị lãnh chúa thời phong kiến Nhật thường hay tổ chức các cuộc múa hát công cộng nhằm mục đích duy trì sự đoàn kết, hòa hợp giữa hàng nông dân, thương gia và các tướng quân (Samurai). Về sau, nó dần dần bị ảnh hưởng của Phật giáo, bằng sự tin tưởng của dân chúng rằng, hằng năm vào dịp lễ Bon (Vu Lan), các oan hồn của những người chết thường hay trở về, hầu mong gặp lại, và chung vui trong vài ngày với bà con, bạn bè của họ đang còn sống ở thế gian. Do đó, người dân Nhật thích tổ chức múa hát để đón rước, chào mừng khi các vong hồn đó trở về thăm gia đình.

Ngày nay, tục lệ nhảy múa, ca hát trong ngày lễ Bon, đã trở thành quá phổ biến, và ngày vui nhất trong năm, đối với dân chúng Nhật ở thành thị cũng như thôn quê. Hơn nữa, tại Nhật, vào hai tháng 7 và 8 dương lịch, khí trời rất nóng, nên có dịp ra ngoài múa nhảy, tránh cái nóng bức ngồi trong phòng ở nhà, là điều thật vô cùng thích thú, nhất là đối với lớp người trẻ, thanh thiếu niên nam nữ. Những cuộc múa hát này tổ chức ở đâu? Nơi nào cũng được, phần nhiều tại khuôn viên các đền, chùa, hoặc ở ngoài đường, hay trong công viên của thành phố. Cũng có thể thực hiện nơi sân trường học, trong vườn sau nhà của mình, hay ngay cả bãi đậu xe công cộng.

Người ta chỉ cần dựng lên ở giữa khoảng đất trống một cái giàn gỗ nhỏ hình tứ giác, cao từ 3 đến 4 thước tây, và đặt trên nền của giàn đó một chiếc trống lớn để đánh hòa nhịp theo với những bản nhạc mở băng ghi âm, hoặc bằng nhạc sống. Trường hợp sàn gỗ của giàn này khá rộng, đủ chỗ cho một ban nhạc và ban vũ địa phương trình diễn trên đó để hướng dẫn quần chúng đứng xung quanh ở dưới nhảy hát theo thì càng tốt. Tham dự các cuộc nhảy múa trong ngày lễ Bon (Bon Dance), nữ giới, quý cô trẻ cũng như các bà, thường thích mặc y phục cổ truyền của Nhật Bản, đó là loại áo KIMONO dệt bằng vải mỏng, đặc biệt dùng cho mùa hè, trên áo có thêu bông hoa nhiều màu sắc rực rỡ.

Người nhảy, phải theo nhịp điệu của tiếng trống, giọng hát của ca sĩ, và âm nhạc gồm có ống sáo và đàn ba giây (tiếng Nhật gọi là Shamisen).Về cách nhảy, có khi người ta nhảy một mình, từng nhóm hay tập thể. Vừa nhảy, họ vừa hát, vỗ tay, dậm chân, khi mau khi chậm, tùy theo tiếng trống và âm nhạc; mọi thứ đều hòa điệu với nhau, nhịp nhàng, khiến cho người ngoài dự xem vô cùng thích thú, hào hứng, khó lòng đứng yên mà không nhảy vào nhập cuộc được. Những bài hát, nghệ sĩ thường dùng để hát trong các buổi vũ Bon (Vu Lan) này, phần lớn là những bài dân ca nổi tiếng. Quý Phật tử nào có dịp qua thăm Nhật Bản, gặp mùa Vu Lan, muốn đến tham dự để nhảy trong ngày lễ Bon với dân chúng địa phương cho biết, thì tốt nhất, theo ý chúng tôi, quý vị nên tìm tới viếng thăm các ngôi chùa danh tiếng ở trong hay ngoại ô các thành phố lớn tại Nhật như Tokyo (Đông Kinh), Kyoto, Osaka và Nara v..v..vì tại những nơi này, các cuộc vũ Bon, phần nhiều được tổ chức liên tiếp trong ba ngày, thu hút rất đông người đến tham dự, đa số là các giới trẻ. Cuộc vũ, nhiều nơi, có thể kéo dài suốt đêm. Dân chúng, khi vũ tập thể, thật quá vui, và hình như họ không còn biết mệt là gì, cứ nhảy múa theo hết bài dân ca này đến bài dân ca khác.

Tưởng nên biết thêm, phần lớn các vũ khúc phổ biến nhất mà dân chúng thích nhảy trong ngày hội lớn Bon, là những vũ điệu dân gian, pha lẩn tôn giáo, được các ban vũ danh tiếng Nhật Bản trình diễn vào dịp lễ Bon tại các thành phố như Kosi, tỉnh (Nagamo); Tokushima (tỉnh Tokushima) và ở đảo Sado thuộc tỉnh Niigata vào các ngày 14,15,16 tháng 8 dương lịch. Ngoài ra, các nơi khác có tổ chức múa hát trong ngày lễ Bon như tại thành phố Miyazu (tỉnh Kyoto) vào ngày 16 tháng 8 và ở đền Omiya tại thành phố Yamaca, (tỉnh Kumamoto) tổ chức vào các ngày từ 15 đến 17 tháng 8 dương lịch.

Nói tóm, ngày lễ Bon hay Vu Lan tại Nhật, là dịp nhắc nhở mọi người con Phật nghĩ đến việc lo báo hiếu, phụng dưỡng cha mẹ hiện còn sống, và cầu siêu cho cha mẹ đã qua đời. Ngoài ý nghĩa tôn giáo ra, ngày Hội lớn Bon còn thể hiện nếp sống văn hóa dồi dào phong phú của dân tộc Nhật. Thật vậy, ngày lễ Bon tại Nhật ngày nay, đã trở thành một ngày Đại Hội, ngày vui nhất trong năm của toàn thể dân chúng, chứ không riêng gì Phật tử; ngày của cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè, chủ thợ, thầy trò v..v.. đều gặp mặt chung vui, sum vầy, qua những cuộc múa hát tập thể ngoài trời, tại đền chùa, đường phố, công viên, và khắp mọi nơi toàn nước Nhật.

Tài Liệu Tham Khảo:

1. A Guide to Buddhism (International Buddhist Exchange Center) Yokohama.

2. Japan: An Interpretation, by Lafcadio Hearn, Tokyo

3. Everyday Life in Traditional Japan, by Charles J. Dunn, Tokyo

4. Japan: An Anthropological Introduction, by Harumi Befu, Tokyo

5. A Hundred Things Japanese (The Japan Culture Institute), Tokyo

6. The Map of Japan, by Nitchi Map-Publishing Co., Tokyo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5077)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4096)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4692)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3598)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6880)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6954)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5051)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]