Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài hiểu biết về chiếc áo cà sa

29/09/201016:00(Xem: 9156)
Vài hiểu biết về chiếc áo cà sa

Không khí trang nghiêm của những đạo tràng với những chiếc y màu vàng hoại sắc và những chiếc áo tràng màu lam dịu luôn luôn là những hình ảnh đẹp. Hình ảnh đó vừa trang nghiêm vừa thanh thoát, vừa như có vừa như không. Đó là sắc bắc cầu với không, hình tướng gieo mầm cho vô tướng
.

Tạo sự kết nối giữa hình nhi hạ với hình nhi thượng, hay thế giới thường tục với thế giới chân như, luôn luôn là mục đích trong các nghi lễ và nghệ thuật Phật giáo. Dĩ nhiên không phải chiếc áo, màu sắc hay âm thanh quyết định cho sự kết nối đó. Cái đẹp trong Phật giáo là cái đẹp của chân và thiện, mà chân và thiện thì vượt ngoài sắc tướng và âm thanh. Và chính cái đẹp chân thiện đó đóng vai trò kết nối trong nghi lễ, nghệ thuật Phật giáo.

casa.jpg

Với những phương tiện trong nghi lễ Phật giáo, cái đẹp chân thiện được biểu hiện để đem Tịnh độ vào thế gian, đem Niết bàn vào thực tại. Và người Phật tử tham dự trong các đạo tràng thanh tịnh đó có thể trải nghiệm được một phần nào tính chất thanh tịnh của Niết bàn, cảm nhận được giá trị của hạnh phúc chân thật, để có thể sống một đời sống thanh tịnh, an vui, lợi mình, lợi người.

Nói về y phục Phật giáo, ở Việt Nam, ngoài chiếc áo cà sa sẽ trình bày ở phần sau, hình ảnh những chiếc áo màu nâu, màu vàng hoại sắc, những chiếc áo màu lam dịu gợi lên trong chúng ta hình ảnh một đời sống đơn giản, khiêm cung, hòa ái, an lạc và thanh thoát. Những màu sắc đó cũng rất gần gũi với chúng ta. Đó là màu của đất, của khói hương, của lá, cây, củ, rễ, những thứ rất gần với đời sống của người Việt trong mấy ngàn năm. Và đặc biệt trong thế giới chạy đua với thời gian ngày nay, những màu sắc đó nhắc chúng ta rằng, vẫn còn có những nơi chốn mà thời gian không chạm đến, sự mâu thuẫn và tranh đua không len vào, nơi mà đất trời có thể được cảm nhận thật gần, hiện diện ngay trong đời sống này, là những chỗ chúng ta có thể dừng lại, trong chốc lát hay dài lâu, để tìm thấy sự nghỉ ngơi và tìm lại chính mình.

Do đó, hình thức không phải là cái gì dư thừa trong Phật giáo, nhất là Phật giáo Đại thừa, một tông phái Phật giáo không tách rời với đời sống xã hội.

Thế giới của các kinh điển Đại thừa, cũng như nghệ thuật Phật giáo, từ tranh tượng cho đến các lễ nghi, là một thế giới đầy màu sắc và âm thanh. Đời sống của chúng ta gắn liền mật thiết với sắc tướng và âm thanh. Với Phật giáo, dùng sắc tướng để mở cánh cửa vô tướng, dùng âm thanh để mở cánh cửa vô thanh. Đó là con đường phát hiện tánh thấy hay tánh nghe. Dừng lại trong tánh thấy hay tánh nghe đó là nắm được nền tảng của đời sống, là đặt được chân vào ngưỡng cửa của giáo pháp, là thấy tánh, là khởi sự cho niềm vui.

Tôn giáo, nhất là những tôn giáo có sự giao tiếp nhiều với xã hội như Phật giáo, vì vậy có những nguyên tắc ứng xử có tính cách xã hội qua những phương tiện sắc tướng, âm thanh. Trong lịch sử truyền bá và phát triển, Phật giáo đã triển khai nguyên tắc khế lý khế cơ để tạo nên một nền văn hóa Phật giáo phong phú. Và từ đó, nghệ thuật Phật giáo, một nền nghệ thuật có thể nói là phong phú nhất trên thế giới, phát sinh.

casa-1.jpg

Trang phục Phật giáo nói riêng và nghệ thuật Phật giáo nói chung có thể nói là những phương tiện để thể hiện đời sống giác ngộ. Vì là phương tiện nên trong quá trình truyền bá và phát triển, cũng giống như những phương tiện khác, y phục Phật giáo cũng tùy theo thời đại, địa phương mà thay đổi.

Nhưng dù bao nhiêu thay đổi, có một cái không bao giờ thay đổi. Đó là hình ảnh "đầu tròn áo vuông," cái mà dù đi đến đâu, ở bất cứ phương trời nào, những người tu sĩ Phật giáo vẫn nhận ra nhau khi gặp nhau. Áo vuông là chiếc áo cà sa đắp ngoài của các tu sĩ Phật giáo.

Theo kinh sách, chiếc y hay cà sa có lịch sử như sau:

Khi Đức Phật rời bỏ hoàng cung để tìm đạo, theo truyền thống, Ngài đổi bộ đồ sang quý của Ngài để nhận lấy bộ đồ của người khất sĩ. Theo kinh điển thì y phục của người khất sĩ thời bấy giờ được may bằng những mảnh vải vụn bị vứt bỏ, có thể là do lửa cháy, bị quào rách, hoặc là vải quấn thây người chết,… Những mảnh vải vụn đó được may lại thành một tấm hình vuông hay chữ nhật đủ để quấn thân, rồi được nhuộm bằng màu từ các loại thảo mộc, tạo nên một loại màu tạp, nhìn không được sạch sẽ. Đó là chiếc áo mà Đức Phật đã mặc trải qua nhiều năm tìm đạo trước khi Ngài chứng quả Phật.

Sau khi đức Phật thành đạo, tăng đoàn bắt đầu được thành lập, dù Đức Phật không còn chủ trương khổ hạnh mà đi theo con đường trung đạo, Ngài và các đệ tử của Ngài vẫn giữ lối ăn mặc của các khất sĩ đương thời, không có quy cách riêng về y phục cho Tăng đoàn. Điều này làm cho vua Tần Bà Sa La gặp khó khăn khi ông muốn cúng dường các vị tu sĩ Phật giáo. Do đó, ông đã thỉnh cầu Phật cho tu sĩ Phật giáo có được pháp phục riêng biệt. Lúc đó, Phật và ngài A Nan đang trên đường du hành phương Nam để thuyết pháp, nhìn những thửa ruộng ngăn nắp trên cánh đồng bên đường, Đức Phật bảo ngài A Nan theo hình ảnh đó làm mẫu pháp phục cho chư Tăng, Ni. Vì vậy chúng ta thường gọi cà sa là áo ruộng phước (phước điền). Ruộng phước ở đây không có ý chỉ sự giàu có vật chất, nhiều lúa gạo, của cải. Phước ở đây là phước của đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát, phước cho những người biết tôn kính những bậc có đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát.

Và chúng ta có thể hình dung sau đó là bóng dáng những đoàn người hay chỉ một người đơn độc, mình mặc cà sa, đầu cạo sạch ung dung bước đi trên những con đường phố, những con đường làng, ngồi tham thiền dưới những bóng cây của núi rừng, trong các hang động. Rồi đến một lúc, khi nhìn thấy một đoàn người mặc cà sa, người ta liên tưởng đến sự an nhiên vắng lặng của một người, nhìn thấy một người mặc cà sa, người ta liên tưởng đến một tăng đoàn vắng lặng và trang nghiêm. Hình ảnh một chiếc cà sa trở thành hình ảnh của tất cả cà sa, và tất cả cà sa ở trong hình ảnh một chiếc áo cà sa. Và người ta cảm nhận về một bản thể Tăng già. Màu cà sa giờ đây là màu của thanh tịnh và giải thoát, hòa hợp và kết nối, màu của Thánh chúng, suối nguồn của hạnh phúc.

Cà sa là chiếc áo đạm bạc, màu sắc đạm bạc, nói lên một đời sống khiêm tốn nhất, đơn sơ nhất. Và sự khiêm tốn, đơn sơ đến độ "không còn dùi để cắm" đó cũng chính là một đời sống cao quý và giá trị nhất.

Sau hơn 2.500 năm Phật giáo truyền bá trên khắp thế giới, do bối cảnh văn hóa và địa dư khác biệt đã tạo ra những sự khác biệt trong hình thức, nhưng như đã nói, hinh ảnh "đầu tròn áo vuông" là một hình ảnh bất biến và bao trùm.

Và hình ảnh "đầu tròn áo vuông" trong một mức độ nào đó còn nói lên tính chính thống của Tăng đoàn và giáo pháp. Hình ảnh đó rất cần thiết trong những thời kỳ mà sự mạo danh và lạm dụng phổ biến như ngày nay.

casa-2.jpg

Hơn bất cứ một biểu tượng nào của Phật giáo, hình ảnh chiếc cà sa được đặc biệt tán dương.

Theo truyền thống Trung Hoa, chiếc áo cà sa có mười hai tên gọi. Mười hai tên gọi đó cũng nói lên mười hai tính chất của cà sa và cũng là tính chất của người mặc cà sa. Đó là: 1. Cà sa: Áo có màu chết, màu đạm bạc, nói lên đức khiêm cung, đơn giản. 2. Đạo phục: Áo của người đi theo con đường chân chính, hợp lẽ. 3. Thế phục: Áo của người cắt đứt mọi ràng buộc thế gian, từ bỏ tham luyến. 4. Pháp y: Áo Chánh pháp, áo của người đi trên con đường chân chánh, hướng đến sự nghiệp giải thoát chân thật. 5. Ly trần tục: Áo xa lánh những bụi bặm, phiền não của thế gian, của người dấn bước trên con đường tịnh hóa thân tâm. 6. Tiêu sấu phục: Áo tiêu trừ phiền não, áo của người đi trên hành trình diệt trừ phiền não cho mình và cho người. 7. Liên hoa phục: Áo chứa đựng mọi tính chất của Phật giáo: trong sạch, không nhiễm, lan tỏa, kết nối,… 8. Gián sắc phục: Áo gồm các màu sắc lẫn lộn, màu không màu, nói lên tính chất rỗng không của các pháp, không có chỗ để nương. 9. Từ bi phục: Áo từ bi. 10. Phúc điền phục: Áo ruộng phước. 11. Ngọa cụ: Áo có thể dùng để lót nằm. 12. Phu cụ: Áo có thể dùng để làm chăn đắp. Hai tên sau cùng nói lên một đời sống lang thang, không cố định, không bám giữ.

Theo kinh điển Pali, y của Phật được truyền lại cho ngài Ma ha Ca Diếp trước khi Đức Phật nhập Niết bàn. Và chính ngài Ca Diếp là vị đã tổ chức kỳ kết tập lần đầu tiên để có sự nhứt quán về giáo pháp của đức Phật. Chúng ta có thể nghĩ rằng, việc trao y bát này là một hình thức trao thẩm quyền gìn giữ và lưu truyền giáo pháp. Và cũng theo kinh điển Nam Tông, khi sắp nhập diệt, ngài Ma ha Ca Diếp lên hang Tượng Đầu trên núi Kỳ Xà Quật, khoác lên người chiếc y của Phật, nguyện thân xác không hoại cho đến khi Đức Di Lặc ra đời.

Trong kinh Pháp Hoa, một trong ba hình ảnh tượng trưng cho những đức hạnh của vị Pháp sư Pháp Hoa là "mặc áo Như Lai." Mặc áo Như Lai theo kinh giải thích là sống trong hạnh nhu hòa, nhẫn nhục. Cà sa là biểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục. Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng, tin chắc rằng mọi chúng sanh đều có Phật tánh và khả năng thành Phật. Đó là tâm từ, là hạnh thành Phật. Hình ảnh ngài Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoanói lên hạnh nhu hòa, nhẫn nhục đó.

Ngài Thường Bất Khinh là một vị Tăng sống trong thời kỳ Tượng pháp của Đức Phật Oai Âm Vương. Ngài không tụng đọc kinh sách, chỉ suốt đời thực hành một hạnh: khởi tâm bình đẳng và cung kính đến tất cả mọi người, tin rằng mọi người đều có tánh Phật. Mỗi khi gặp một vị Tăng, Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, Ngài đều cúi lạy, tán dương: "Tôi rất quý kính ngài, chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý ngài đều tu hành đạo Bồ tát, sẽ đặng làm Phật".Dù bị ngược đãi, ngài Thường Bất Khinh không thối tâm trong việc thực hành hạnh Thường Bất Khinh đó. Và khi sắp lâm chung, ngài lãnh hội được toàn bộ giáo pháp Nhất thừa từ Đức Phật Oai Âm Vương.

Như vậy, cà sa là áo Phật, áo Như Lai, hạnh cà sa là hạnh Phật. Cà sa tượng trưng cho sự nhu hòa, nhẫn nhục, bình đẳng, khiêm cung. Đó cũng là những đức hạnh để phát triển tâm Từ.

Kinh Bi Hoa(Từ Bi Liên Hoa), đã mô tả năm công đức thánh thiện của áo cà sa. Năm công đức đó là kết quả của năm lời nguyện của Đức Phật khi Ngài tu hành đạo Bồ tát. Đức Phật nguyện khi Ngài chứng quả Chánh giác, cà sa của Ngài sẽ có năm đức như sau: 1. Người thế tục biết kính trọng cà sa sẽ được Tam thừa. 2. Trời, rồng, người, quỷ, thần biết kính trọng cà sa cũng sẽ được Tam Thừa. 3. Chúng sanh và quỷ thần chỉ cần bốn tấc cà sa sẽ được no đủ. 4. Chúng sanh thường nghĩ nhớ đến cà sa sẽ tăng trưởng lòng từ bi. 5. Người trong trận mạc nếu có một mảnh cà sa và kính trọng mảnh cà sa đó thì sẽ được vinh quang.

Kinh Đại thừa bổn sanh tâm địa quánđề cập đến mười lợi ích của việc mặc cà sa như sau:

"Một là, che thân mình, xa lìa được sự xấu hổ, đầy đủ đức biết hổ thẹn để tu hành thiện pháp. Hai là, xa lìa sự lạnh, nóng, ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an ổn tu đạo. Ba là, hiện ra tướng mạo Sa môn xuất gia, người ta trông thấy sinh tâm vui vẻ, xa lìa được tâm tà vạy. Bốn là, cà sa tức là bóng dáng lá cờ báu của nhân, thiên, chúng sinh tôn trọng kính lễ được sinh Phạm thiên. Năm là, khi mặc cà sa tưởng tượng là lá cờ báu, diệt được mọi tội, sinh mọi phúc đức. Sáu là, bản chế cà sa nhuộm thành hoại sắc là để muốn xa lìa năm dục tưởng, không sinh tâm tham ái. Bảy là, cà sa là áo thanh tịnh của Phật, dứt hẳn được phiền não, tạo ra ruộng phúc tốt lành. Tám là, thân mặc cà sa, tội nghiệp tiêu trừ, phát sinh mười thiện nghiệp đạo, niệm niệm tăng trưởng. Chín là, cà sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng trưởng Bồ tát đạo. Mười là, cà sa cũng như áo giáp, mũ trụ, tên độc phiền não không hại được." (KinhĐại thừa bản sinh tâm địa quán, HT.Thích Tâm Châu dịch).

Luận Thập trụ bà sađề cập đến 26 loại y và mười lợi ích của y. Kinh Hải Long Vươngđề cập đến việc Long Vương thoát khỏi móng vuốt của đại bàng nhờ sự che chở của cà sa của Phật.

Như vậy, theo kinh điển, công đức của cà sa là vô lượng.

Với Thiền Tông, chiếc áo cà sa cũng mang một ý nghĩa đặc biệt và rất được tôn quý. Chiếc cà sa được chư Tổ truyền nhau, là chiếc áo Chánh pháp và sự trao truyền đó mang ý nghĩa là trao truyền Chánh pháp. Chiếc áo đó đi theo dòng giác ngộ của Thiền, tức đi theo tâm ấn của Phật. Đối với Thiền, đó là chiếc áo tượng trưng hay chứa đựng toàn bộ kho tàng giác ngộ của chư Phật, chư Tổ và của tất cả chúng sanh.

Không những chiếc y truyền thừa theo dòng Tổ có giá trị siêu việt mà cà sa bình thường của các Thiền tăng cũng có một ý nghĩa và giá trị siêu việt. Trong tiểu luận The Merits of the Kasaya, ngài Uku viết:

"Cà sa là một vật rất quan trọng đối với người theo Phật. Nó không chỉ là pháp phục của Tăng, Ni, mà còn đại diện trọng tâm của thiền; mặc cà sa là mặc áo Phật và mặc áo Phật là toàn tâm toàn ý thực hành thiền. Cà sa là thân và tâm của Phật".

Trong Chánh pháp nhãn tạng, ngài Dogen (Đạo Nguyên) viết:

"Nên nhớ rằng cà sa là đối tượng tôn kính và thành tâm hướng về Đức Phật. Nó là thân của Phật và tâm của Phật. Chúng ta gọi nó là áo giải thoát, áo ruộng phước, áo vô tướng, áo tối thượng, áo nhẫn nhục, áo Như Lai, áo Đại từ, áo Đại bi, áo vinh quang, áo tam miệu tam bồ đề. Chúng ta nên nhận nó và duy trì nó như vậy, khiêm cung đội trên đầu. Vì nó là như vậy, chúng ta không bao giờ thay đổi nó theo ý chúng ta".

Chỗ khác Ngài viết:

"Khi chứng quả Phật, tất cả các Đức Phật đều mặc cà sa, điều đó cho thấy rõ mặc cà sa được coi như có công đức đáng kính và cao cả nhất." (Chánh pháp nhãn tạng).

Tóm lại, theo ngài Dogen, công đức của chiếc áo cà sa không thể suy lường. Đó là suối nguồn bất tận của thành tựu và phúc lạc. Nó vượt ngoài không gian và thời gian. Nó hiện diện ngay nơi đây bây giờ, mà cũng đang hiện diện khắp pháp giới trong mọi thời gian. Cà sa chính là Pháp thân của chư Phật.

"Chiếc áo cà sa không phải là một sáng tạo của con người, cũng không phải không là một sáng tạo của con người. Nó không dừng lại một nơi nào, nhưng không có chỗ nào nó không dừng lại. Và ý nghĩa chân thật của chiếc áo cà sa chỉ có chư Phật mới hiểu được. Những người đi trên con đường đạo, những lợi ích của chiếc áo cà sa mang đến cho họ thật là vô cùng tận". (Chánh pháp nhãn tạng).

Trở về với chúng ta, chúng ta đang hiện diện nơi đây đồng thời chúng ta cũng đang hiện diện trong pháp giới của chư Phật. Pháp giới đó từ ngàn xưa cho đến ngàn sau không hề thay đổi, và chúng ta vẫn thường hằng ở trong đó. Nhưng chúng ta đã u mê không nhìn thấy cho đến khi hình bóng chiếc cà sa xuất hiện để kết nối chúng ta với pháp, mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được rằng, chúng ta vẫn đang ở trong pháp giới của chư Phật, có cùng pháp thân với chư Phật. Và từ đó đời sống của chúng bắt đầu thênh thang và có ý nghĩa.

Đời sống đó chẳng những đem đến sự an vui, hạnh phúc và ý nghĩa cho cá nhân, mà còn là tố chất làm thăng hoa tập thể, chất keo kết nối cộng đồng. Và như chúng ta thấy, khi những bóng cà sa từ những chiếc thuyền buôn ghé vào đất nước chúng ta trong hoàn cảnh khổ nhục của người dân mất nước, những chiếc cà sa đó đã xoa dịu niềm đau và làm thăng hoa, kết nối chúng ta, để khi hội đủ nhân duyên, những chiếc cà sa đó lại vạch đường cho một tương lai tươi đẹp của đất nước.

Đó là ý nghĩa của chiếc áo cà sa riêng đối với chúng ta, cũng như đối với lịch sử của chúng ta.

Thị Giới

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2017(Xem: 102582)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 9246)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 8318)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
15/10/2017(Xem: 12054)
Giới đàn là một trong những sinh hoạt đặc thù của Tăng-già, được quy định hết sức chặt chẽ trong Luật tạng. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc thực hiện giới đàn chưa được quan tâm một cách nghiêm túc cần thiết. Sau đây là một trong những hiện tượng như thế. Từ lá thư hoài nghi của một tân giới tử Tỳ-kheo-ni… Vào một buổi chiều tháng 12 gần cuối nămdương lịch, người viết tới thăm Hòa thượng Luật sư Thích Minh Thông tại Giới đàn viện Huệ Nghiêm. Vì là chỗ Thầy trò, cũng là để học hỏi và trao đổi giới luật với ngài nên chúng tôi thường xuyênlui tới mỗi khi có dịp. Lần này vào thăm ngài, bàn trà chưa kịp rót ra như mọi khi thì Hòa thượng đã vội đến bàn làm việc, lục tìm trong chồng thư từ ra một bức thư chuyển phát nhanh. Hòa thượng trở lại bàn trà và mở lá thư ra đọc cho người viết nghe nội dung bức thư ấy.
11/10/2017(Xem: 8035)
Sáng nay, mở cửa đón một ngày mới, ngày mới có thực đang hiển hiện rõ ràng trước lục căn cùng lúc tiếp nhận, nên xin đừng nói đó là ngày của cõi chiêm bao hư ảo, của cõi vô thường giả tạm, tôi lại nhận được tin thêm một người hàng xóm đã qua đời. Một người mẹ, người bà, đã tám mươi năm sống với thế gian hỗn độn lổn ngổn sướng khổ buồn vui. Hết nợ hết duyên kiếp này rồi, thì bà xuôi tay nhắm mắt vĩnh biệt trần gian mà ra đi thôi.
11/10/2017(Xem: 10118)
Tôi vừa hoan hỷ, vừa xúc động khi nhận được thư thông báo về đại nguyện xuất gia của anh Trần Duy Phô. Hoan hỷ là vì sinh ra kiếp làm người đã khó; lại được nhìn thấy ánh sáng Phật pháp lại càng khó hơn. Một bước cuối đời là được xuất gia Phật đạo để tìm con đường giải thoát là một hồng ân mà trong cuộc sống của một xã hội vừa thực dụng vừa năng động như Hoa Kỳ thì mộng ước xuất gia đi tu, trong anh em chúng ta, mấy người có được.
11/10/2017(Xem: 9122)
“Sau những giờ gò bó, ăn mặc nghiêm trang khi ở tòa án hay ở văn phòng, về tới lớp Thiền, tôi mặc thoải mái thế này, tôi cảm thấy mình thật trở về với chính mình, trút bỏ được những hình thức, những suy tư rối rắm thường ngày…”.
08/10/2017(Xem: 8939)
Tâm Thư Về Việc Thành Lập Bệnh Viện Đa Khoa Miễn Phí - Tiến Sỹ Tiến Đặng
28/09/2017(Xem: 10516)
Jordi Al Emany là người sáng lập một công ty tư nhân. Vừa qua ông đã đăng một bài trên mạng xã hội, nói rằng tiền tài không phải vạn năng, có 10 thứ cho dù có gia tài bạc triệu cũng không mua được. Bài viết đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh trên cộng đồng mạng, mọi người đều tán thành. Khi đang theo đuổi một cuộc sống hưởng thụ, ngàn vạn lần chúng ta cũng đừng nên bị mất phương hướng, chỉ vì ham muốn hưởng thụ vật chất, mà quên đi rằng có những thứ dù có tiền cũng không thể mua được.
27/09/2017(Xem: 6800)
Nhân cách là vấn đề cơ bản của "tâm lý học"; khoa tâm lý cho rằng nhân cách được hình thành bởi 3 yếu tố: -xã hội, sinh học và tâm lý. Con người là một động vật tự hữu về hoạt động, một phần chịu ảnh hưởng bởi giáo dục, bởi cộng đồng xã hội và cuộc sống chung quanh. Ngoài vấn đề nhận thức tiếp thu từ ngoại cảnh, ý thức tự thân còn chịu ảnh hưởng không nhỏ về tập khí mà nhà Phật gọi là hạt giống tiềm ẩn trong tâm thức. Điều này tạo nên sắc thái cá biệt từ ý thức đến nhân cách. Nhân cách có thể thay đổi tùy hoàn cảnh, tuổi tác và sự cố.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]