Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

06/04/201209:48(Xem: 8197)
Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò
Thích Phước Đạt

thayvatroKhông phải ngẫu nhiên giáo lý Phật giáo và đạo lý dân tộc ta đều xác lập mối liên hệ thầy trò thật khắng khít, không thể tách rời trong sự hình thành nhân cách con người. Mỗi cá thể con người hiện hữu ở đời đều do cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng, nhưng sự trưởng thành, lớn khôn, cất bước chân hội nhập với đời đều nhờ công ơn giáo dưỡng của thầy cô. Thế nên, bổn phận của người học trò luôn ý thức tôn kính thờ thầy mà giới luật nhà Phật đề cao cái gọi là “Sự Sư đệ nhị”, còn đạo lý dân tộc thường dạy “Tôn Sư trọng đạo” mà xưa nay người dân Việt Nam thực hiện. Để thiết lập mối quan hệ hai chiều giữa thầy và trò ngày càng bền chặt, thăng hoa trong sự phát triển các mối quan hệ tình người trong cuộc sống,Đức Phật đã giảng dạy mối quan hệ này qua bài kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Trường bộ kinh IV).

Về quan hệ giữa thầy và trò

Bản kinh nói trên đề cập 5 điểm chính mà người thầy phải có trách nhiệm và bổn phận truyền trao cho người học trò:

1- Rèn luyện cho học trò theo những đức tính mà mình có.

2- Dạy cho học trò giữ gìn và nhớ kỹ điều cần thiết.

3- Dạy cho học trò nắm vững nghề nghiệp đến mức thuần thục.

4- Khen học trò đối với bạn bè quen biết.

5- Đảm bảo nghề nghiệp cho học trò trên mọi mặt.

Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thức và chuyển hóa tâm linh đối với mọi người. Do đó, người thầy trở thành bậc mô phạm giữa đời, là tấm gương phản ánh để người học dõi theo thực tập. Hay nói một cách cụ thể, vị thầy là người thực thi đời sống hướng nội “tri hành hợp nhất”. Cái biết của thầy là cái biết đúng sự thật chân lý, trên hết là thể nhập một đời sống tâm linh hướng nguyện vào các đối tượng mà mình giảng dạy.

Tại đây, người thầy không chỉ có nhiệm vụ trao truyền kiến thức đến người học trò mà còn hướng họ thể hiện đời sống thực nghiệm qua thân hành, khẩu hành, ý hành. Mục đích đầu tiên mà người thầy hướng đến là hoàn thiện nhân cách tốt đẹp cho người học, từ đó họ mới sẵn sàng tiếp nhận các kiến thức mà người thầy truyền trao. Đây chính là bước đi đầu tiên mà người học trò cần rèn luyện để trưởng thành với những đức tính tốt đẹp mà người thầy thể hiện trong quá trình giảng dạy. Về mặt này, Đức Phật là vị thầy mô phạm ở đời, có tác động lớn đối với bao thế hệ đi qua.

Cho nên, trong quá trình giáo hóa chúng sinh, Đức Phật là người hết lòng dạy cho các học trò của mình những điều cần nhớ kỹ để thực nghiệm, để thăng tiến đạo hạnh. Những điều cần nhớ, cần giữ gìn chính là con đường thực thi nếp sống có giới như kiện toàn về đạo đức, an trú trong định như là sự ổn định tâm thức, không bị dao động bởi sự biến động của đời sống thực tiễn, từ đó thăng tiến về trí tuệ, có đóng góp thiết thực cho đời.

Đây chính là trách nhiệm lớn lao mà người thầy phải truyền trao cho người học. Suy cho cùng, người thầy là người giới thiệu người học cất bước chân thể nhập vào đời. Do đó, người thầy phải nhiệt tâm trao truyền kiến thức chuyên môn để người học thiện xảo trong nghề nghiệp, tháo vát trong hành xử, tạo ra các sản phẩm tốt mang tính hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất con người mong muốn. Sau đó là sự góp phần đem lại hiệu năng của một đời sống hạnh phúc, an lạc cho từng cá thể.

Sự thành công của người học trò sẽ là niềm khích lệ, động viên cho chính họ thăng tiến và đi xa hơn nữa. Trong trường hợp đó, người thầy phải khéo léo khích lệ người học trò trước mọi người, trước các hội chúng, và bạn bè thân hữu. Điểm này nếu được vị thầy tán dương đúng lúc, đúng thời sẽ tạo ra hiệu quả lớn trong việc giáo dục và đào tạo. Nguyên lý giáo dục khích lệ này không chỉ được Đức Phật thực thi mà các nhà giáo dục hiện đại cũng áp dụng và đưa đến những thành tựu giáo dục như chúng ta đã biết.

Không dừng tại đó, người thầy còn có nhiệm vụ hướng cho người học sau khi thành thạo chuyên môn, phải có ý thức thăng tiến nghề nghiệp để có vị trí xứng đáng trong xã hội. Tại đây, người học trò trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó mà bản thân họ được đào tạo. Tính chuyên môn cao sẽ tạo ra tính bền vững trong nghề nghiệp. Từ đây, nó sẽ tác động đến mọi mặt đời sống của xã hội trong sự phát triển chung của từng cá thể và cả cộng đồng.

Với 5 điểm chính mà người thầy thể hiện trong mối quan hệ giữa thầy và trò như thế sẽ dẫn đến người học trò có 5 bổn phận, trách nhiệm cần phải thực thi với người thầy của mình mà ta sẽ đề cập dưới đây.

Về quan hệ giữa trò đối với thầy

Bản kinh trên cũng đề cập đến 5 điểm chính như sau:

1- Chào thầy khi thầy đến.

2- Hầu hạ, săn sóc thầy.

3- Hăng hái học tập thầy.

4- Tự mình giúp đỡ thầy.

5- Tự trau dồi nghề nghiệp mà thầy trao truyền cho mình.

Thực chất, 5 điểm này là nói đến tinh thần “Sự Sư đệ nhị”, hay “Tôn Sư trọng đạo” của người học đối với vị thầy mà thôi. Sự thể hiện chào thầy khi thầy xuất hiện chính là hình ảnh người học trò biết tôn kính người thầy mọi lúc mọi nơi. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” khiến người học lúc nào cũng khắc sâu vào tâm trí của mình để tri ân và báo ân. Khi người học biết tôn kính người thầy thì người đó mới sẵn sàng đón nhận các kiến thức người thầy truyền trao một cách nhiệt tâm trong ý thức cầu học. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nguyên lý giảng dạy, giáo dục luôn đòi hỏi mối quan hệ này phải được thể hiện hai chiều. Thầy phải tạo dấu ấn lớn trong tâm thức người học trò trên mọi phương diện và ngược lại người trò phải hết sức tôn kính người thầy thì hiệu năng giáo dục mới có hiệu quả cao.

Từ đây, việc săn sóc thầy không còn được xem là bổn phận mà được thể hiện qua cái tình người học trò dành cho người thầy. Việc hầu hạ, săn sóc thầy trở thành một công việc tự nguyện, chẳng có gì để nói. Sự thân cận, hết lòng hầu hạ thầy không chỉ giúp người đó học được kiến thức mà còn học được cách tiếp nhận từ một đời sống thực nghiệm mà người thầy đã thể hiện trong đời sống thường nhật.

Rõ ràng, có rất nhiều điều người học trò phải biết lắng nghe, dõi mắt nhìn vào tấm gương mà người thầy dày công tạo dựng. Một người học trò khôn ngoan và trung thành, hiếu kính với người thầy không chỉ sẵn lòng đón nhận các kiến thức trên bục giảng mà phải học và hành những gì thầy đã giảng dạy ở mọi lúc mọi nơi. Sự nhiệt tâm, tinh cần của người học trò trong việc học tập sẽ tạo ra nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thầy truyền đạt những kiến thức mới không biết mệt mỏi. Nhờ vậy, người học trò có khả năng thăng tiến trên mọi lĩnh vực.

Có thể nói, đây chính là điều kiện để người học trò tự trau dồi kiến thức mà người thầy đã giảng dạy. Nghề dạy nghề là sự thật xưa nay khi mà mỗi người hội nhập vào đời qua khả năng chuyên môn cũng như sự thích ứng với môi trường làm việc, cộng với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong nghề nghiệp sẽ tạo bước nhảy vọt trong sự nghiệp mà mình đeo đuổi trọn đời. Đây là sự đền ơn đáp nghĩa cao nhất mà người thầy trông đợi ở người học trò.

Tóm lại, trong các mối quan hệ giữa người với người thì mối quan hệ giữa thầy và trò, trò đối với thầy là mối quan hệ tạo khả năng thiết lập rộng rãi các mối quan hệ khác. Có thể nói, từ mối quan hệ này mà thiết lập các mối quan hệ khác đa phương, đa chiều trong xã hội. Điều đó có nghĩa là khi mối quan hệ này được thiết lập và xây dựng trên nền tảng giáo dục tự thân và giáo dục cộng đồng với mục tiêu giải thoát khổ đau, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống hạnh phúc và thành tựu Niết-bàn an lạc ngay trong cõi đời này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5606)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4311)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9143)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5472)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5095)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5693)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6189)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5197)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]