Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bảy bước chân thánh

20/03/201216:41(Xem: 6596)
Bảy bước chân thánh
BẢY BƯỚC CHÂN THÁNH
Ngẫu Hồ

phatdansinh7hoasen-contentPhật tử chúng ta đến chùa thường hay bắt gặp hình cảnh một vị tiểu Phật cao khoảng 3 bộ, bụ bẫm, xinh đẹp, quấn ngang người một tấm vải từ vai xuống, giống như cách phục sức của một vị tăng, đứng trên một hoa sen đầu tiên và trước mặt là 6 đóa hoa sen giống như nhau, ngón trỏ tay phải chỉ lên trời, ngón trỏ tay trái chỉ xuống đất. Được biết có chùa đặt vị tiểu Phật ở hoa sen thứ bảy, sau lưng là 6 đóa hoa sen và cũng cùng một thế chỉ trời và đất như vậy.

Hình cảnh này bắt nguồn từ câu chuyện trong kho tàng văn học của Phật Giáo rằng, bà Hoàng Hậu Maya, vợ vua Tịnh Phạn, vào thời gian có mang Đức Phật ở những ngày sau cùng, một hôm đi dạo chơi với các tì nữ hầu cận trong vườn Thượng Uyển, thì bỗng trở dạ và sanh ngài luôn tại đây. Lúc vừa lọt qua lòng mẹ, thì ngài đứng luôn dạy, nhận khăn vải từ một tì nữ, tự quấn ngang người, rồi bước lên một hoa sen hiện ra từ mặt đất, rồi bước tới bông sen thứ hai cũng hiện ra ngay sau đó từ mặt đất, rồi bông sen thứ ba, cho đến bông sen thứ bảy thì ngừng lại và một ngón trỏ của bàn tay phải chỉ lên trời và ngón trỏ của bàn tay trái chỉ xuống đất, miệng thì thốt ra câu:

“Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là tôn quý”

Đây là một câu chuyện gây tranh cãi cho phần lớn Phật tử tri thức, vì nó hoàn toàn mang tính huyền hoặc và nhất là nó mâu thuẫn với lịch sử của Phật Giáo. Lịch sử như chúng ta biết là ngài lúc 5 tuổi theo cha ra đồng để dự lễ Hạ Điền mà Hoàng Gia tổ chức cho nông dân vui chơi đầu mùa xuân, trước khi nông dân gieo mạ, lúc mọi người đang vui chơi, thì ngài tìm một bóng cây và ngồi theo thế thiền định. Ngài lớn lên trong sự quan tâm và giáo dục đặc biệt của vua cha và mẹ kế và cũng là dì ruột của mình, năm 19 tuổi thì lập gia đình, có một con trai tên là Aluha, năm 29 tuổi thì xuất gia, sau 6 năm trời tu khổ hạnh tìm chân lý, nhưng không thỏa ước nguyện, ngài đã quyết tâm tu thiền và ngài đã thành đạo năm ngài 35 tuổi, đến năm 80 tuổi thì ngài chấm dứt việc giáo hóa chúng sinh. Ngài truyền trao giáo đoàn lại cho vị cao tuổi nhất của ngài là ngài Đại Ca Diếp cùng với pháp tối thượng, rồi sau đó nhập diệt.

phat-dansinh-0012-thumbnailCâu chuyện lịch sử của Phật Thích Ca vừa mới tóm lược như trên và câu chuyện 7 bước với lời tuyên bố mang tính huyền thoại của ngài lúc vừa mới lọt lòng mẹ, nếu để đứng cạnh nhau, thì thật là mâu thuẫn, đến độ mang tính loại trừ, nghĩa là, nếu có chuyện này thì không thể có chuyện kia. Vì rõ ràng nếu ta chỉ tìm ý nghĩa ngay trên mặt chữ, thì câu chuyện bảy bước và lời tuyên bố đầy cao ngạo của một trẻ sơ sinh chỉ là chuyện hoang đường, mờ ảo, tuyệt nhiên không thể là một câu chuyện phát tích của một vị thày của toàn thể tri thức lúc đó và ngay cả bây giờ nữa. Phải chăng đây là một biểu tượng cho một thâm sâu vi diệu nào đó? Vậy ta thử chịu khó suy tư và đào sâu vào câu chuyện bảy bước này xem sao:

Này nhé, một vị tiểu Phật vừa mới ra đời cũng đồng nghĩa với một người xưa nay chưa từng tiếp xúc với Phật pháp, mà nay vì một duyên tình cờ nào đó, lại được gặp Phật pháp, và thấy rằng Phật pháp quả thật là có thể lý giải được những nghi ngờ, khúc mắc của ta trước đây, và ngay tại điểm này ta bùng vỡ một cái thấy, ý nghĩa rõ ràng, sau đó, ta tự nhủ rằng, từ nay sẽ xem Phật pháp là kim chỉ nam, là phương tiện thù thắng, để giải đáp cho ta những vấn đề thâm sâu hơn, thì cũng ngay tại điểm này, ta chính là một vị tiểu Phật vừa mới ra đời.

Nhưng là một vị tiểu Phật ra đời, không có nghĩa là ta thành quả vị Phật ngay đâu, mà ta phải học, và tu những Phật pháp từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó và sau cùng, ta phải đứng và bước đi được trên 7 hoa sen. Đây chính là cái thâm sâu của câu chuyện 7 bước hoa sen.

Phải chăng 7 hoa sen tượng trưng cho 7 thức sau khi đã được thanh tịnh hóa, đó là Tỉ, Thiệt, Nhãn, Nhĩ, Thân, Ý và Mạt Na Thức. Tổng cộng là 7 thức = 7 hoa sen.

Phải chăng việc đứng và đi trên 7 hoa sen là hoàn toàn làm chủ được các thức tình này. Mà khi thanh tịnh và làm chủ được 7 thức tình này, thì thức thứ 8 là A Lại Da Thức (Alaya) cũng chính là chân tâm, cũng chính là chân ngã thức, sẽ được hoàn toàn giải thoát và lúc được giải thoát rồi, thì chân ngã thức mới được gọi là tôn quý. Cho nên mới nói: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, tức là:

“Trên trời, dưới đất, chỉ có ta (ngã) là tôn quý”

Ngã đây chính là chân ngã, là một trong 4 ý nghĩa của lý giải thoát là: Thường, Lạc, Ngãvà Tịnh.

Xin được giải thích về cái ngã trong lý vô ngã của Đức Thích Ca. Khi có người hỏi tại sao đạo Phật chủ trương vô ngã, mà trong đây lại nói là có một cái ngã giải thoát (tức là có cái ta giải thoát), sao lại có sự mâu thuẫn này? Thưa đúng vậy, cái ngã đã được giải thoát chính là cái ngã vô ngã.

Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó, sẽ chẳng ai thấy cái sáng của ta (giải thoát, vô ngã) mà chính ta cũng không thấy cái sáng này (vô ngã), nhưng ta luôn luôn biết rằng, ta có sáng (có giải thoát=vô ngã).

Vậy câu chuyện 7 bước của một vị tiểu Phật vừa mới ra đời và câu nói “Trên trời, dưới đất, chỉ ta là tôn quý” chỉ là một hình cảnh biểu tượng, gói ghém trọn vẹn đạo lý giải thoát của Đức Thích Ca Mâu Ni.

Trên đây, xin đóng góp một vài lý giải thô thiển, nếu chư vị Phật tử thấy hợp ý, thì xin được phổ biến, giải thích cho những người khác khi được hỏi tới 7 bước chân Phật để cùng nhau tin tưởng chánh pháp của Đức Thích Ca.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật tử Ngẫu Hồ.

Xem thêm:

HUYỀN THOẠI ĐẢN SINH - Thích nữ Tịnh Quang
ĐẾN ĐỂ THẤY, THẤY ĐỂ TIN: LÂM TỲ NI NƠI PHẬT ĐẢN SINH - Tâm Diệu
NHÂN MÙA PHẬT ĐẢN BÀN VỀ TÍCH ĐẢN SANH- Tâm Diệu

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5612)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9147)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5476)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5107)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5700)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6197)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5203)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]