Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đón mừng Xuân Di Lặc

24/01/201205:02(Xem: 12985)
Đón mừng Xuân Di Lặc

Người Phật tử Việt Nam cũng có tâm lý chiêm ngưỡng, tônkính Phật Di Lặc và Ngài trở thành biểu tượng cho sự mong cầu an vui, thịnhvượng dài lâu trong tâm khảm của lòng mình…

16.jpg

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, mùa khởiđầu cho muôn loài thay da đổi thịt, cây cối đều đâm chồi nảy lộc, vạn vật đổithay, tràn trề sức sống mãnh liệt. Con người vì thế háo hức đón chào mùa xuân,cũng là đón mừng mùa xuân Di Lặc, với niềm tin Đức Di Lặc thị hiện ở đời vớinhững điều tốt lành sẽ đến với mọi người, mọi nhà.

Kinh DiLặc Thượng sinh,kinh Di lặc hạ sinhthì cho rằng Ngài xuất thântrong một gia đình Bà la môn, sau làm đệ tử Phật, nhập diệt trước Phật, dùngthân Bồ tát trụ ở cõi trời Đâu Suất thuyết pháp giáo hóa các vị trời cõi này.Theo truyền thuyết, Bồ tát vì muốn giáo hóa chúng sinh, nên không ăn thịt từlúc mới phát tâm; do nhân duyên ấy mà Ngài có tên là Từ Thị. Bản kinh ĐạiNhật Sớ (1), Bồ tát Từ Thị ấy lấy chữ Từ trong Tứ vô lượngtâm của Phật làm đầu. Lòng từ đó sinh ra từ chủng tính Như Lai, khiến hết thảychúng sinh trong thế gian này không mất hết Phật tính. Và Đức Thế Tôn từng thọký rằng hết thời kỳ tuổi thọ con người là 4.000 tuổi, ước vào khoảng 57 tỷ 60 triệunăm nữa, lúc ấy Bồ tát hạ sinh xuống cõi này thành Phật dưới cội Long Hoa, chialàm 3 hội thuyết pháp. Do ý nghĩa Ngài thay Phật thuyết giáo nên gọi Bồ tát làNhất sinh Bổ xứ, Bồ tát Bổ xứ, Bổ xứ tát đỏa. Khi Ngài thành Phật thì gọi là DiLặc Như Lai, Phật Di Lặc.

Theo nhưý nghĩa nói trên, chân dung của Ngài, phần lớn được các chùa thờ phụng bằnghình ảnh Di Lặc miệng cười tươi, bụng phơi ra; có khi còn có lục tặc hài nhiđeo quanh mà vẫn thản nhiên, tự tại vô cùng. Thế nên, Phật tử chúng ta có tâmlý yêu thích chiêm ngưỡng Ngài, nhất là vào những ngày đầu xuân trong ý nghĩa“tống cựu nghinh tân”, xóa bỏ những điều xấu xa, không may mắn trong năm cũ, nỗlực hành thiện để đón chào năm mới với bao điều tốt đẹp.

Hìnhtượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ainhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.Ngày đầu tiên của năm mới mà có được cảm nhận hân hoan, hiền thiện của chấtliệu từ bi hỷ xả như thế thì không gì phúc lạc bằng, không gì ấn tượng hơn đốivới niềm tin vào Tam bảo, đối với niềm tin lẽ sống của người biết sống đạo.Huống chi, bản chất người học đạo vốn là những người biết hướng tâm sống theonếp sống hiền thiện, chân chất, tùy hỷ với mọi người, yêu thích mọi loài, đầunăm lên chùa lễ Phật, hướng nghĩ về Ngài, phẩm tính Phật Di Lặc “Từ thị” trongmình lại càng dễ hiển lộ ra bên ngoài. Do vậy, tâm tính chúng ta lại càng vuihơn, hạnh phúc nhiều hơn khi tiếp xúc với mọi người trong giờ phút hiện tại,bây giờ và tại đây.

Rõ ràng,mỗi khi con người sống với tâm hiền thiện, có chánh tín vào nếp sống đạo, có hỷlạc trong việc thực hành pháp thiện, từ bỏ pháp ác, thì đây chính là niềm tintrong một tương lai gần Đức Di Lặc sẽ thị hiện. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Niđã từng xác tín rằng chính nếp sống hiền thiện, hướng thiện của người học đạo,hành đạo, chứng đạo là cơ sở, là nền tảng đón chào Ngài ra đời trên thế giannày.

Bản kinhChuyển luân Thánh vương Sư tử hống (Cakkavatti-sìhanàda-suttanta),Trường Bộ 1 cho rằng nhân duyên Đức Phật Di Lặc thị hiện hoàn toàn khácvới Đức Thích Ca Mâu Ni đản sinh ra giữa ở cõi đời ô trược, với với một tâm địavô cùng phức tạp, tham ái nặng nề. Trong khi đó, Đức Phật Di Lặc chỉ thị hiệnvào lúc con người có một đời sống đạo đức hướng thượng, con người biết kết nốiyêu thương, sống chân thật, hoan hỷ với nhau chứa chan tình người. Như vậy, sựhiện thân của Đức Phật Di Lặc là biểu trưng cho một nếp sống đạo đức hướngthiện, thuần tịnh, mà đỉnh cao là hướng tâm giải thoát.

Nói mộtcách dễ hiểu, bất cứ ai được sinh ra, lớn lên, trưởng thành đều mong cầu đượcsống hạnh phúc, đầy đủ vật chất, sức khỏe dồi dào, sống lâu trường thọ, và trítuệ minh mẫn. Quan trọng hơn là người đó cần thể hiện một đời sống tâm linhthánh thiện, giàu chất liệu yêu thương được thể hiện qua tinh thần từ bi hỷ xảtrong đời sống thường nhật. Do đó mỗi khi người Phật tử háo hức đón chào xuânDi Lặc, mong cầu Phật Di Lặc đản sinh có nghĩa trong tâm thức họ ước nguyệnsống thiện lành, từ bỏ ác pháp, thực hành Chánh pháp trong niềm hỷ lạc vô biên.

Đâychính là điểm cốt lõi của bản kinh này, cũng là thâm ý của chư Phật muốn khuyếncáo người Phật tử đón xuân, mừng xuân và căn bản nhất là sống với “mùa xuânthường tại” quanh năm suốt tháng, khi tâm thức thuần tịnh, không nhiễm ô, tuổithọ sẽ dài ra. Ngược lại con người sẽ khổ đau khi rong ruổi theo mùa xuân vậtlý với sự mong chờ được hưởng thụ và đắm say dục lạc thế gian, tràn đầy thamái. Tuổi thọ con người sẽ giảm đi, hẳn nhiên khổ đau và đọa lạc sẽ ập đến.

Phậtdạy, con người là chủ nhân ông của nghiệp, là người thừa tự nghiệp. Do đó conngười tự quyết định đời sống hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Một ngườithân cứ làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ về điều ác thì cấp độ khổ đau theo đósẽ gia tăng mãi, đồng nghĩa tuổi thọ đi xuống điểm tận cùng. Chỉ khi nào conngười nhận chân sự nguy hại của một đời sống bất thiện, và khởi tâm sống vớiđiều thiện, hiếu kính với Sa môn, tôn trọng bậc trưởng thượng trong gia đình,thực hành chánh pháp thì sự nguy cơ khổ đau sẽ được giảm thiểu và tuổi thọ bắtđầu tăng trưởng trở lại:

“Nàycác Tỳ kheo, đến một thời kỳ, do nhân làm ác hạnh, tuổi thọ loài người chỉ cómười tuổi,… rồi các loài hữu tình suy nghĩ vì chúng taọ nhân bất thiện nên bàcon ta giết hại nhau như vậy. Chúng ta hãy làm các điều thiện. Do hành thiệnnên được tuổi thọ được tăng thịnh, sắc đẹp tăng trưởng. Vì tuổi thọ được tăngthịnh, sắc đẹp tăng trưởng nên tuổi thọ loài người chỉ 10 tuổi nhưng con của họsẽ thọ đến 20 tuổi. Rồi suy nghĩ vậy chúng ta làm việc thiện nhiều hơn nữa, sốngđúng 10 thiện pháp, hiếu kính với mẹ cha, lễ lạy các vị Sa môn, Bà la môn, cungkính các vị cầm đầu trong gia đình… con cái họ sẽ lên đến 40 tuổi, 80 tuổi… chođến khi tuổi thọ loài người lên đến bốn vạn tuổi và các người con lên đến támvạn tuổi…

buddha.jpg

Nhờ nỗlực sống hiền thiện, lại được xác tín bởi niềm tin bất động đối với Tam bảo,kết quả sắc đẹp, tuổi thọ kéo dài cho đến khi nào mọi người trở nên hiền hòa,an lạc, gia đình hạnh phúc, xứ sở phồn vinh, thế giới hòa bình thực sự… Bấy giờtuổi thọ của con người có thể lên đến 8 vạn tuổi, vua Chuyển luân Thánh vươngsẽ xuất hiện, dùng Chánh pháp để an dân, khiến cho cả thế gian này thái bình,thịnh trị vững bền. Chính thời điểm này, Đức Phật Di Lặc cũng ra đời và chuyểnpháp luân, khiến cho ai cũng an trú hạnh phúc trong giáo pháp của Ngài:

Bấy giờ có vị Chuyển luân Thánh vương tên là Sankha rađời, là vị Pháp vương lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, cai trịcác quốc độ, có đủ bảy món báu. Vị ấy vì quả đất này cho đến hải biên, dùngChánh pháp trị quốc, không dùng trượng, không dùng kiếm. Này các Tỷ kheo,khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ rađời, là vị A la hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải,Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mìnhbiết, chứng, và tuyên thuyết trên quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạmthiên giới; thế giới này gồm Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người. Vị nàysẽ thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủthanh thịnh và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh nhưTa hiện nay thuyết pháp. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn nhưTa hiện nay có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn”.

Rõ ràng,sự kiện Đức Chuyển luân Thánh vương và Đức Phật Di Lặc ra đời giữa thế gian nàynhư kinh điển ghi lại là câu trả lời xác tín cho vấn đề tại sao chúng ta phảithực thi nếp sống hiền thiện, sống đúng luật nghi, có chánh kiến và trang trảilòng từ bi hỷ xả đến với mọi người. Tại đây, loài người không còn khởi tâmtham, sân, si trong khi hành xử giữa con người với con người, con người với xãhội, con người với thiên nhiên, môi trường sống. Như vậy, ý nghĩa đón mừng PhậtDi Lặc đản sinh nhân dịp Xuân về Tết đến là thông điệp sống theo nếp sống hướngthượng, trên hết là hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau giữa cuộc đời đầybiến động này.

Đó cũnglà con đường sống của Phật giáo xưa nay hướng đến. Nói một cách cụ thể, mỗi cánhân hiện hữu ở đời phải biết thực thi nếp sống đạo “Ở trong nhà thì hiếuthảo với mẹ cha, ra ngoài đường thì phải biết giúp nước hộ dân, khi ngồi mộtmình phải biết tu thân” (2). Lời dạy trên chỉ cho chúng ta tự thiết lập một nếpsống đạo đức nhân sinh, được xây dựng trên nền tảng hiếu thảo mẹ cha, hòa thuậnvới bà con, biết sẻ chia, giúp đỡ mọi người trong từng hoàn cảnh cụ thể, trênhết là tu tâm dưỡng tánh để tự điều chỉnh bản thân thích ứng với mọi điều kiệnsống mà hành xử cho đúng đạo. Cho nên, mỗi cá nhân hiện hữu phải thường xuyênchánh niệm, sống đúng luật nghi, không ngừng nỗ lực làm thiện, lấy trí tuệ làmsự nghiệp.

Có như vậy, khi bạn làm gì điều gì, cũng sanh tâm hoanhỷ như Phật từng xác tín trong kinh Tăng Chi: “Trước khi làm thiệnviệc gì, chúng ta cũng sanh tâm hoan hỷ, trong khi làm việc thiện gì cũng sanhtâm hoan hỷ, sau khi làm việc thiện gì cũng sanh tâm hoan hỷ”. Đây cũng làcơ sở mọi người trên hành tinh này cùng nhau nỗ lực kiến tạo một thế giới anlạc mà Phật Di Lặc thị hiện. Chúng ta có quyền ước nguyện và cùng nỗ lực hướngđến xây dựng thế giới hạnh phúc ngay từ bây giờ

Thích PhướcĐạt

(1) Xem Kinh Trường Bộ, q.2, Đại tạng kinh Việt Nam, Viện NCPHVN, 1991, tr.353-386. (2) Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, tập 2, Tu thư Vạn Hạnh, 1982, tr.292.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2020(Xem: 5240)
Hội đồng Lập pháp Sikkim đã thông qua dự luật ngày 21 tháng 9 năm 2020, để thành lập một ngôi trường Đại học Phật giáo ở bang đông bắc Ấn Độ. Được biết với tên gọi Đại học Phật giáo Khangchendzonga (KBU), cơ sở này sẽ trở thành trường Đại học tư thục Phật giáo đầu tiên tại Ấn Độ, và là trường Đại học đầu tiên tại Sikkim do người dân bản địa Sikkim sáng lập.
01/10/2020(Xem: 5662)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 5829)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5691)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4825)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5577)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5838)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 7316)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5423)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6591)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]