Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trồng hoa trên đá

18/01/201209:20(Xem: 8225)
Trồng hoa trên đá
hoa-phu-dung
Một đóa Phù Dung trồng trên đá của Thiền sư Đạo Giai đến bây giờ vẫn còn lung linh sắc xuân: "Ngộ sắc ngộthinh như thạch thượng tài hoa/ Kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết".

Tạm dịch:

Gặp sắc gặpthinh như trồng hoa trên đá,
Thấy lợi thấydanh như bụi rơi trong mắt.

Ai bảo thiền sưkhông biết trồng hoa chứ! Các Ngài còn trồng hoa trên đá nữa kìa. Mắt thấy sắctai nghe tiếng mà không dính là trồng hoa trên đá. Do không dính nên không cầnphải gỡ. An nhàn tự tại. Đóa hoa tâm mặc sức mà sắc sắc không không giữa muônhồng ngàn tía, biến hóa khôn lường, không đóa hoa nào dám sánh cùng. Thiền sưkhông để cho danh lợi làm hoen mờ đôi mắt, thấy là phủi liền. Cho nên các Ngàicó đôi mắt sáng, không bị nhậm nên không cần phải đeo kính viễn kính râm. Sựvật vì thế không bị đổi màu, nhãn quan vì thế không bị chinh nghiêng.

Chúng ta cũngthích an nhàn tự tại nhưng lại sợ cô đơn, thanh đạm. Quanh quẩn bên mình có mộtchút sắc thinh danh lợi thì đời dường như vui hơn, khởi sắc hơn. Cho nên conngười đã không ngần ngại dệt gấm thêu hoa nơi chốn trần gian lắm mộng. Con mắtlà một cơ quan, chức năng của nó là để nhìn thấy. Chúng sanh nhìn thấy sanhchuyện, Bồ-tát nhìn thấy không sanh chuyện, khác nhau ở chỗ tâm phan duyên. Mắtem xanh thẳm những trời xanh… Quá! Thi nhân cho đó là hồn thu thủy, mặc sức màbơi lội chìm nổi trên đầu sóng thức lô xô. Phật gia thì bảo điên đảo vọngtưởng, dẹp quách cho rồi. Sống bình thường dễ thấy bình an.

Tâm là tiếng Tàu, dịch qua tiếng Việt làtim. Vì là tim nên nó quyết định mạng sống của mình. Chỉ cần tim ngừng đập làchúng ta chết. Thiên hạ ai không từng đứng tim khi chạy theo tài sắc danh thựcthùy, vậy mà vẫn cứ mê chạy theo nó, cho nên chết điếng liên miên. Càng theođuổi càng mệt mỏi, dù được hay không cuối cùng cũng mất trắng, bởi vì nó cóthật đâu mà được. Nắm ngũ dục trong tay chưa chắc là đã có hạnh phúc, đôi khicòn khổ hơn chưa nắm. Thử tưởng tượng ta nắm một cục nước đá trong tay, khi nócòn mình lạnh buốt, khi nó tan mình trắng tay. Thế thôi. Hợp tan là luật củaduyên sinh vô thường, không phải chuyện con người định đoạt.

Thiền sư thấu đạt lẽ này nên thích trồnghoa trên đá, thưởng hoa trên đá, không trồng trên ngũ dục như chúng ta. Hoa nởthì biết hoa nở, hoa tàn biết hoa tàn chứ không tàn nở theo hoa. Ngũ dục chỉ lànhững thứ ảo giác chóng đổi thay, nhưng nó lại có một sức hấp dẫn kinh người.Ngẫm mà xem, cái ảo mà làm cho ta đau ta khổ mới thật vô lý, nhưng con ngườivẫn cảm thấy có lý. Thật ra các pháp tựu tán không làm cho chúng ta khổ, mà tâmtham ái chấp trước làm mình khổ. Tất cả các pháp trên thế gian là vô thường màta muốn nó còn hoài là ta đi ngược với luật vô thường. Chống lại một quy luậtkhông thể chống là tự đưa mình vào con đường cùng, vào nỗi khổ cùng đường.

Trong kinh Kim Cang, Phật dạy: “Bất ưngtrụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sởtrụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh,hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Chúng tacó thể tạm diễn nghĩa thế này “không nên trụ nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, conngoan, công danh, sự nghiệp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm”,được không? Nếu sống được như vậy là chúng ta đang bắt chước thiền sư trồng hoatrên đá. Thực tập chỗ này không phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, nhưng đôi khi lạiquá sức mình? Tại sao lạ vậy? Tại nghiệp lôi mạnh quá. Chúng sanh quen chạytheo những thứ ấy rồi, bây giờ bảo đừng chạy theo không phải chuyện dễ. Cần rấtnhiều công phu, chịu khó sửa lại thói quen, dĩ nhiên là cực hơn chạy theo thóiquen.

Không nên trụ tức là không nên kẹt. Khôngnên trụ sắc sanh tâm, là không nên mê thích sắc rồi sanh tâm muốn nó thuộc vềmình. Người thế gian khi thấy sắc đẹp liền thích, muốn sắc đó thuộc về mình.Muốn không được thì đau khổ, thất vọng. Muốn được lại càng khổ hơn vì phải gìngiữ. Nếu nó mất đi nỗi khổ cứ thế nhân thêm lên. Đang thanh thản an nhiên, bỗngdưng chuốc khổ vào thân vì một chút sắc bên ngoài, rồi đổ thừa ngũ dục lôi. Hỏikỹ lại, ta lôi ngũ dục hay ngũ dục lôi ta? Phật dạy nếu muốn hết khổ thì khôngnên trụ sắc, thanh, hương… sanh tâm. Tổ bảo gặp sắc gặp thinh như trồng hoatrên đá, cả hai đều không ngoài một diệu chỉ nhất như.

Việc tu sửa thật ra không phải quá sứcchúng ta, nhưng vì mình ít làm, hoặc không quyết tâm làm, thành ra thấy khó.Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằmtrong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở. Trong vận mệnhnày chúng ta toàn quyền quyết định, tự hạ lệnh cho mình và tự hành lệnh mộtcách nghiêm chỉnh. Nếu không nghiêm chỉnh thì tự nhận phạt bằng cách thọ khổ.Có thế thôi. Ngày nào chúng ta chưa hết khổ là ngày đó chưa hành chánh lệnhquyết liệt, không nên đổ thừa cho ai, cũng không nên kêu cứu ai, mà phải tựmình cứu mình.

Chúng sanh khổ là do gá tâm vào các duyênrồi chấp kẹt nơi đó. Bây giờ đừng gá nữa, hoặc lỡ gá thì gỡ từ từ, đằng nàychúng ta không gỡ mà còn cố cột thêm. Như vậy biết bao giờ mới hết khổ. Hồichưa học Phật, chưa là Phật tử, chúng ta khổ mười bây giờ giảm bớt còn tám,sáu, năm, ba, hai, một, chứ không thể hồi trước khổ một bây giờ khổ hai ba. Nhưvậy không phải là Phật tử.

Tổ dạy “Trồng hoa trên đá” là làm tất cảviệc mà không dính, tức là làm trong tâm tỉnh giác. Muốn thế phải có đạo lựcrất mạnh. Nếu tâm không tỉnh chúng ta sẽ tạo nghiệp, trước tiên là tạo nghiệptrong ý tưởng. Một khi ý đã dấy rồi mà không có sự tỉnh giác, thì sẽ dẫn tớimiệng, miệng nói chưa đủ sẽ dẫn tới tay chân. Thế là tam giới mở ra, ba cõi sáuđường đồng hiện bày. Người tỉnh giác, an ổn trong cái thấy nghe thì đâu có việcgì. Nhìn mắt em chỉ thấy mắt em, chứ đừng thêm một trời xanh thăm thẳm thìkhông chói mắt. Chỉ vậy thôi.

Căn cảnh không dính nhau, đó là trồng hoa trên đá, làđóa Phù Dung mãn khai của thiền sư năm xưa hiến tặng cho cuộc đời trong vạn kỷniên xuân.

Hạnh Chiếu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2019(Xem: 14967)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 7792)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 6799)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6230)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 6653)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5533)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5504)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
09/01/2019(Xem: 10252)
Ngày 26/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rời Làng Mai Thái Lan về Đà Nẵng. Hai ngày sau, chiều 28/10, Thầy đã về chùa tổ Từ Hiếu trong sự chào đón của các học trò cũng như tăng ni, Phật tử ở Huế. Chuyện này thì ai cũng biết và các báo đài đã đưa tin rất nhiều.
08/01/2019(Xem: 8081)
Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41. Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?
08/01/2019(Xem: 7818)
TRÁI TIM RỘNG MỞ THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Thông dịch: Thupten Jinpa Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tác giả, dịch giả và người hiệu đính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]