Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Rồng trong kinh điển Phật giáo

18/01/201206:10(Xem: 12747)
Rồng trong kinh điển Phật giáo

Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linhthiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng,ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại. Kinh điển Phật giáo có nhiều huyềnthoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắmcho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long,Long vương nghe kinh Thập thiện, Long nữ thành Phật…

Rồng trongsự kiện đản sinh

Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, khi thái tửTất đạt đa ra đời có Tứ thiên vương dùng lụa quý của cõi trời đỡ, Trời Đại Phạmthiên và Trời Đế Thích cầm lọng báu đứng hầu hai bên. Lúc này trên không trungcó hai vị Long vương phun hai dòng nước ấm và mát tắm cho thái tử. Kinh chépnhư sau: “…Lúc mặt trời vừa mọc, bà (hòang hậu Ma Da) thấy trong vườn có mộtcây lớn tên là Vô Ưu, sắc hoa rực rỡ, mùi hương thơm ngát, cành lá bủa rất rộngrất đẹp, liền với tay phải muốn hái hoa kia. Ngay khi đó, Bồ tát từ hông phảibước ra.

IMG_4905.JPG

Tượng Đức Phật sơ sinh (chín rồng phun nước tắm ngài)

Lúc ấy, nơi gốc cây cũng hiện ra bảy hoa sen bảy báu (thất bảo) lớnnhư bánh xe. Bồ tát đứng trên hoa sen không cần người đỡ, tự đi bảy bước, đưacánh tay phải lên, cất giọng như sư tử rống: “Trong tất cả trời người, ta làbậc tôn quý nhất; vô lượng sinh tử, hôm nay đã chấm dứt. Đời này ta sẽ làm lợiích cho tất cả chúng sinh”. Vừa nói xong, bốn vị Thiên vương lấy lụa trời đỡlấy Thái tử, đặt trên ghế báu, Thích Đề Hoàn Nhơn và Đại Phạm Thiên Vương taycầm bảo cái đứng hầu hai bên, Long vương Nan Đà, Long vương Ưu Ba Nan Đà ở trênhư không phun một dòng nước ấm, một dòng nước mát trong sạch tắm cho Thái tử.Thân Thái tử màu vàng ròng, có 32 tướng tốt, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắpba ngàn đại thiên thế giới. Tám bộ Trời, Rồng ở trên hư không trỗi các kỹ nhạc,ca tụng khen ngợi, đốt các hương thơm, rải nhiều hoa báu, tuôn xuống như mưacác lọai y trời và anh lạc rực rỡ, không thể tính kể”.

Trong kinh Đại Bổn và Vị tằng hữu pháp cũng cónói: Khi thái tử ra đời, thân không dính một chất dơ nào từ lòng mẹ, có bốnThiên tử đỡ rồi đặt trước Hòang hậu và thưa: “Hòang hậu hãy hoan hỷ. Hòang hậuvừa sinh một bậc vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước máttắm gội cho thái tử.

Còn trong kinh Phổ Diệu ghi rằng, lúc Thái tử đảnsinh có chín con rồng từ trên hư không phun nước xuống tắm cho thái tử. Chín vìhuyền thọai chín rồng phun nước mà sau này có câu kệ tán dương Đức Phật như sau:“Ngọc chất giáng hoàng cung, cửu long phún thủy tề mộc dục” (Bản chất thanhtịnh, trong sạch, quý báu như ngọc giáng sinh ở chốn hòang cung, chín rồng phunnước đồng tắm cho thái tử).

Rồng chemưa cho Đức Phật

Theo Đại Phẩm của Luật tạng, vào tuần lễ thứ basau khi thành đạo, khi Đức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây Mucalinda thì mưato gió lớn nổi lên, một con rắn mãng xà đến quấn quanh mình Ngài và cất cao đầulên che mưa cho Ngài. Trong Đức Phật và Phật pháp của Ngài Nàrada Mahà Thera(Phạm Kim Khánh dịch) ghi sự kiện này xảy ra vào tuần thứ sáu sau khi Phậtthành đạo, thời gian Đức Phật chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trận mưa bãokéo dài suốt bảy ngày mới chấm dứt. Khi trời quang mây tạnh, con mãng xà tháomình trở ra và hóa hiện thành một thanh niên chắp tay đứng trước Đức Phật. ĐứcPhật đã nói cho người thanh niên nghe một bài kệ có nội dung như sau: “Đối vớihạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật làhạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự kiềmchế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sinh là hạnh phúc. Không luyến áingười, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được ngã chấp quả thật làhạnh phúc tối thượng”.

2.JPG

Tượng Đức Phật thiền định có rồng che mưa nắng (Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ)

Câu chuyện rắn thần che mưa cho Đức Phật khitruyền sang Trung Hoa đã chuyển thành câu chuyện rồng thần che mưa cho ĐứcPhật. Chính vì thế mà trong nhiều chùa có tranh ảnh, phù điêu khắc họa hình ảnhĐức Phật ngồi nhập định dưới gốc cây giữa trời mưa to gió lớn, có rồng thầnquấn quanh mình và cất cao đầu che mưa cho Ngài. Trong các huyền thoại về ĐứcPhật được ghi lại trong kinh điển, sau khi lưu truyền qua các nước Trung Hoa,Việt Nam...,hình ảnh rồng thần được thay cho hình ảnh rắn thần. Cũng như trong sự kiện trên(Rắn thần che mưa cho Đức Phật), trong sự kiện Đức Phật hàng phục độc xà (sẽnói ở phần sau), các kinh điển Bắctruyền ghi lại hình ảnh một con hỏa long (rồng lửa) thay vì là một con rắn độc.Đối với người Ấn Độ thì rắn là con vật thiêng liêng trong khi ở các nước TrungHoa, Việt Namthì rồng là linh vật.

Phật hàngphục hỏa long

Trong kinh Quá khứ hiện tại nhân quả có thuậtlại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệtử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.

Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bènhỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Cadiếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngàinghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêmthôi”. Ông Ca diếp bèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia cóthể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vàoe bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã nội thanh tịnh, ngoại taibất nhập” (Bên trong ta thanh tịnh, tai họa bên ngoài không xâm hại được. Xinông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.

3.jpg

Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơilạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thìbay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thìcháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửacháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó:“Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?” Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươihãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của ĐứcPhật.

Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúngnhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy ytheo Phật.

Long nữthành Phật

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề BàĐạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:

“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tích, thị giả của PhậtĐa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tátTrí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và VănThù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.

Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùytùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cung) Ta kiệt la trong biểnlớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuống, đảnh lễPhật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi quamột bên.

Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngàiqua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng.Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.

Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồtát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cảđều do Bồ tát Văn Thù hóa độ. Bồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyênthuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy cóchúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thùđáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trongkhỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ birộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.

Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức PhậtThích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnhkhó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thànhChánh giác”.

Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện ra, cungkính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biếtnhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứngbiết mà thôi.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ:“Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi,phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâuđã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạtchâu hiến dâng Đức Phật Thích Ca, Đức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tátTrí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát TríTích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây,tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.

4.jpg

Chúng hội liền thấy Long nữ thoạt nhiên biếnthành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thànhbậc Đẳng Chánh giác”.

Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa caosâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là loài nào, nam, nữ, già, trẻ, bé,lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đức phước báu, tuhành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng nhưLong nữ vốn là loài rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi,nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánh, ý chí của bậc namnhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thành thân nam), hội đủ điều kiện nhânduyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não(qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.

Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộchúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long(Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõitrời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, cácchúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận vàưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, loài chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơnphi nhơn, hình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánhpháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụngto). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bátbộ.
Phan Minh Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2015(Xem: 12358)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
05/11/2015(Xem: 8192)
Chuyến tàu chở chúng tôi từ Paris về ga Saint Foy La Grande đúng không sai một phút. Xuống tàu tìm mãi không thấy ai đón. Chúng tôi ra ngoài cửa ga đợi nửa tiếng vẫn không thấy ai. Thế là bắt đầu sốt ruột. Tìm lại trong người và hành lý thì hoàn toàn không có điện thoại của Làng Mai, không có địa chỉ. Nghĩ lại thấy mình thật là không cẩn thận, không chu đáo. Biết đi đâu bây giờ. Từ ngày rời Việt Nam tôi không hề dùng điện thoại, chỉ check email và vào facebook up tin một chút vào buổi tối mới mà thôi.
05/11/2015(Xem: 14197)
Chúng con, một nhóm PT mới dịch xong cuốn quotations "All You Need Is Kindfulness " của Đại Sư Ajahn Brahm. “Kindfulness” là danh từ mới do Ajahn Brahm đặt ra để chỉ “mindful” nghĩa là “sati”, tỉnh thức (hay thường được gọi là chánh niệm) với “kindness”- tâm từ ái. Ajahn luôn luôn nhấn mạnh rằng chỉ chánh niệm không thôi chưa đủ mà chúng ta cần phải thêm vào đó cái "nguyên tố kỳ diệu của tâm từ ái".
31/10/2015(Xem: 14084)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
26/10/2015(Xem: 10693)
Trung tuần tháng10 tới đây, tại La Residence Hue Hotel & Spa (số 5 – Lê Lợi Huế), bà Tạ Thị Ngọc Thảo - một người được biết đến không chỉ với tư cách của một doanh nhân bản lĩnh của thị trường bất động sản mà còn là một cây bút sắc sảo nhưng không kém phần trìu mến trong câu chữ - sẽ ra mắt độc giả cuốn “Thư Chủ gửi Tớ” của chị. Đây cũng là những góc nhìn dưới nhiều khía cạnh của một doanh nhân am hiểu và tự tin, không chỉ trong lĩnh vực sở trường của mình.
24/10/2015(Xem: 8763)
Ajahn Sundara là một ni sư người Pháp, sinh năm 1946. Khi còn trẻ bà học vũ cổ điển và hiện đại, và đã trở thành một vũ công nổi tiếng, đồng thời cũng là giáo sư vũ hiện đại. Thế nhưng bà luôn suy tư và khắc khoải về những gì khác sâu xa hơn. Năm 1978 sau khi tham dự một buổi nói chuyện của nhà sư Ajahn Sumedho về cuộc sống của một nhà sư dưới chiếc áo cà sa, bà đã xúc động mạnh, và cảm thấy dường như một con đường mới vừa mở ra cho mình.
22/10/2015(Xem: 11603)
Khi vừa thức giấc mỗi ngày Bạn ơi hãy nghĩ thân này hôm nay Thật là may mắn lắm thay Vẫn còn tỉnh dậy với đầy niềm vui.
22/10/2015(Xem: 10446)
Ni Sư Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Bá Linh. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc Tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan.
21/10/2015(Xem: 11600)
Trong bài giảng dưới đây, nhà sư Ajahn Sumedho, giải thích thật khúc triết và minh bạch thế nào là khổ đau và sự Giác Ngộ qua các thể dạng vận hành tinh tế của tâm thức, Cách giải thích vô cùng sâu sắc và trong sáng đó cho thấy ông là một vị thiền sư ngoại hạng. Thật cũng không lấy làm lạ bởi vì ông là đệ tử của nhà sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1922), một trong số các vị thiền sư lỗi lạc nhất của thế kỷ XX.
18/10/2015(Xem: 7795)
Nhật báo Figaro ngày 14 tháng 10, 2015 có một bài báo tố cáo một lò sát sinh tại một quận lỵ ở Pháp vi phạm các quy tắc y tế về việc giết mổ súc vật. Độc giả có thể xem hình ảnh vô cùng hung bạo và độc ác của lò sát sinh này trên YouTube. Đối với những người Phật giáo thì sau khi xem cũng nên liên tưởng đến những miếng ăn ngon của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]