Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

22/09/201015:30(Xem: 11571)
Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

Thích Phước Sơn

Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này. Mỗikhi nói về Ngài, tựa hồ chúng ta ai cũng biết, nhưng có lẽ không ai dám cho làmình đã hiểu biết đầy đủ tất cả. Thế nên, trong bài này người viết xin giớithiệu cụ thể đôi nét chân dung của Bồ tát một lần nữa, để giúp đại chúng quanchiêm.

Trước hết hãy nói về danh hiệu của Bồ tát. Thông thường cácKinh điển kể về 8 danh hiệu của Ngài như sau:

1. Quan Thế Âm Bồ tát;

2. Quán Tự Tại Bồ tát;

3. Quan Thế Tự Tại Bồ tát;

4. Quan Thế Âm Tự Tại Bồ tát;

5. Hiện Âm Thanh Bồ tát;

6. Quan Âm(*) Bồ tát;

7. Cứu Thế Bồ tát;

8. Quan Âm Đại Sĩ.

Trên đây là những danh hiệu phổ biến mà nhiều người thườngbiết đối với vị Bồ tát này. Thế thì có những Kinh điển chủ yếu nào đề cập đếnxuất xứ, vị trí và những hoạt dụng của Ngài?

* Chúng ta thấy đại khái hành trạng của Bồ tát qua các Kinh:

1) Theo Kinh Đại A Di Đà thì Ngài là Thị vệ bên trái, còn Bồtát Đại Thế Chí là Thị vệ bên phải của đức Phật A Di Đà lo việc cứu độ chúngsinh trong thế giới Ta bà. Cả 3 vị được gọi chung là Tây phương Tam Thánh (3 vịThánh ở phương Tây). Và trú xứ chính thức của các Ngài là cõi Tây phương Tịnhđộ. Phàm khi chúng sinh gặp tai nạn mà chí thành niệm danh hiệu Quan Âm Bồ tát,thì lập tức Ngài đến nơi cứu giúp. Do thế mà Ngài được đức hiệu là Quan Thế ÂmBồ tát (Vị Bồ tát chuyên lắng nghe âm thanh cầu cứu của thế gian).

2) Theo Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thì Ngài có 33 hóa thân,từ thân Phật, Độc giác… đến thân đồng nam, đồng nữ. Ngài thường vận dụng 14năng lực vô úy để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ách nạn, hoặc đáp ứng những yêucầu chính đáng khi nào chúng sinh thành tâm niệm đến danh hiệu của Ngài.

3) Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì pháp môn tu của vị Bồ tátnày là Nhĩ Căn Viên Thông, nghĩa là tai Ngài có thể được sử dụng như năm cănkhác. Ngài phát tâm tu hành nơi pháp hội của đức Phật Quan Thế Âm, và đức Phậtnày đã thọ ký cho Ngài khi thành Phật sẽ có Phật hiệu giống như mình. Do đó màNgài có hiệu là Quan Thế Âm. Đồng thời vị Bồ tát này cũng có 32 ứng thân giốngnhư Kinh Pháp Hoa đã mô tả.

Chỗ khác nhau là Kinh Pháp Hoa kể đến 33 ứng thân, còn KinhLăng Nghiêm thì liệt kê 32 ứng thân. Ngoài ra, hai Kinh này còn giống nhau mộtđiểm nữa là cùng mô tả về 14 đức vô úy của vị Bồ tát này. Số lượng và nội dungcủa các đức vô úy này gần y hệt như sau.

4) Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà la ni thìNgài đã thành Phật từ đời quá khứ cách nay vô lượng kiếp, hiệu là Chánh PhápMinh Như Lai, nhưng vì nguyện lực Đại bi, muốn làm lợi ích cho chúng sinh nênNgài hiện thân Bồ tát để dễ dàng hoàn thành đại nguyện. Thế nên, ngoài danhhiệu Bồ tát Quan Âm như chúng ta thường nghe, có đôi chỗ còn gọi là Phật QuanÂm là vì vậy.

5) Theo Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương thì Ngàilà Thị vệ của đức Phật Thích ca.

6) Theo Mật giáo thì Ngài là hóa thân của đức Phật A Di Đà.

7) Theo Kinh Hoa Nghiêm thì đạo tràng của Ngài ở núi Bồ ĐàLạc trên biển Nam Hải. Đó là đôi nét sơ lược về hành trạng của Bồ tát Quan Âmmà các Kinh đã đề cập đến. Bây giờ chúng ta sẽ bàn rõ thêm một số vấn đề cụ thểkhác.

* Cuộc đời Ngài qua các phương diện:

1) Về tín ngưỡng Quan Âm

Tín ngưỡng này phát xuất từ Ấn Độ, Tây Vức, sau đó nhờ côngtác phiên dịch Kinh điển mà nó được truyền sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản,Triều Tiên, Việt Nam v.v… Bản Kinh có đề cập đến Bồ tát Quan Âm là Kinh PhápHoa Tam Muội, gồm 6 quyển, do Chi Cương Lương Tiếp dịch vào năm Ngũ phụng thứ 2(255) triều đại nhà Ngô thời Tam Quốc. Đây là bộ Kinh được dịch sớm nhất làloại này. Sau đó, Trúc Pháp Hộ dịch Chánh Pháp Hoa Kinh Quan Thế Âm Phổ Mônphẩm vào năm Thái Khang thứ 7 (286). Rồi Cưu ma la thập dịch Diệu Pháp Liên HoaKinh Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn phẩm vào năm Hoằng Thỉ thứ 8 (406) đời DiêuTần.

Bắt nguồn từ các Kinh được phiên dịch ra chữ Hán kể trên màsự tín ngưỡng Quan Âm dần dần phát triển mạnh. Tại Tây Tạng, nền tín ngưỡng nàyrất thịnh hành. Lạt ma giáo cho rằng đức Đạt Lai Lạt Ma được tái sinh nhiều đờichính là hình ảnh hóa thân của Bồ tát Quan Âm. Ngoài ra, các nước khác tại ChâuÁ, chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc truyền thì hình ảnh Bồ tát Quan Âm tượngtrưng cho mẹ hiền cứu khổ, được nhiều người thành kính tin tưởng và rất mực tônsùng.

2) Về diệu dụng của Quan Âm

Về sức uy thần diệu dụng của vị Bồ tát này theo Kinh PhápHoa thì thường có 33 hiện thân như sau:

1. Thân Phật;

2. Thân Độc Giác;

3. Thân Duyên Giác;

4. Thân Thanh Văn;

5. Thân Phạm Vương;

6. Thân Đế Thích;

7. Thân Tự Tại Thiên;

8. Thân Đại Tự Tại Thiên;

9. Thân Thiên Đại Tướng quân;

10. Thân Tứ Thiên Vương;

11. Thân Thái tử của Tứ Thiên Vương;

12. Thân Nhân Vương;

13. Thân Trưởng giả;

14. Thân Cư sĩ;

15. Thân Tể quan;

16. Thân Bà la môn;

17. Thân Tỷ kheo;

18. Thân Tỷ kheo ni;

19. Thân Ưu bà tắc;

20. Thân Ưu bà di;

21. Thân Nữ chúa;

22. Thân Đồng nam;

23. Thân Đồng nữ;

24. Thân trời;

25. Thân Rồng;

26. Thân Dược xoa;

27. Thân Càn thát bà;

28. Thân A tu la;

29. Thân Khẩn na la;

30. Thân Ma hầu la già;

31. Thân Người;

32. Thân Phi nhân;

33. Thân Thần Cầm Kim Cương.

Đó là những hóa thân của Quan Âm Bồ tát. Đồng thời Ngài còncó 14 năng lực Vô úy khác nữa phát sinh hiệu dụng khi nào chúng sinh thành tâmniệm danh hiệu của Ngài, mà Kinh Pháp Hoa cũng như Kinh Lăng Nghiêm đã mô tảnhư sau:

1. Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danhhiệu Ngài, liền được giải thoát;

2. Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt;

3. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm;

4. Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại;

5. Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy;

6. Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trôngthấy;

7. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích đượctháo ra;

8. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thểcướp đoạt;

9. Chúng sinh nhiều tham dục…, liền dứt khỏi tham dục;

10. Chúng sinh nhiều nóng giận…, liền dứt hết nóng giận;

11. Chúng sinh nhiều mê ám…, liền dứt hết mê ám;

12. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai;

13. Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái;

14. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằngniệm tất cả các danh hiệu khác.

Đó là 14 diệu dụng mà đức Bồ tát này dùng để hóa giải áchnạn, ban phát ân huệ cho những chúng sinh nào có lòng thâm tín đối với Ngài.

* Về Hình Tượng Quan Âm

Trước hết hãy nói về giới tính của Ngài, thông thường đượcthể hiện qua 2 hình thức, hoặc là Nam tính, hoặc là Nữ tính.

Nam tính: Phật giáo Tây Tạng thờ Bồ tát Quan Âm theo hìnhthức Nam tính. Đồng thời tương truyền từ đời Đường trở về trước các nước Phậtgiáo khác tại Châu A cũng tạc tượng Ngài theo hình thức Nam tính.

Nữ tính: Theo sách Trang Nhạc Ủy Đàm thì từ đời Đường trở vềsau, các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa, khi tạc tượng Ngài đều dùnghình thức Nữ tính.

Ngoài ra, 3 chi phần khác là đầu, mắt, và tay của Bồ tátthông thường được minh họa như sau:

Đầu: Từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu, nghìn đầu, cho đến 84.000đầu.

Mắt: Từ 2 mắt, 3 mắt, cho đến 84.000 mắt.

Tay: Từ 2 tay, 4 tay, cho đến 84.000 tay.

* Về Những Ngày Kỷ Niệm

Như tất cả chúng ta đều biết, đặc biệt vị Bồ tát này hằngnăm có đến 3 ngày kỷ niệm, đó là kỷ niệm các ngày Đản sanh, Xuất gia và Thànhđạo:

Ngày Đản sanh: nhằm ngày 19/02 âl.

Ngày Xuất gia: nhằm ngày 19/06 âl.

Ngày Thành đạo: nhằm ngày 19/09 âl.

* Về Nơi Cư Trú

Tất nhiên, do sức thần thông diệu dụng và do bản hoài cứukhổ chúng sinh nên vị Bồ tát này luôn luôn có mặt ở khắp mọi nơi mỗi khi cóngười thành tâm cầu nguyện, nghĩa là có cảm thì có ứng. Nhưng theo lẽ thôngthường, chúng ta thấy các Kinh ký tải về nơi cư trú của Ngài như sau:

Ở Tây phương Tịnh độ: theo Kinh A Di Đà.

Ở núi Bồ đà lạc trên biển Nam Hải: theo Kinh sớ Hoa Nghiêmsớ.

Ở núi Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc: theo Kinh QuanThế Âm Bồ tát cứu khổ.

* Quan Âm Liên Hệ Với Chuẩn Đề

Bây giờ xin trình bày về mối quan hệ giữa Bồ Tát Quan Thế Âmvà Bồ Tát Chuẩn Đề. Chuẩn Đề là từ phiên âm của chữ Phạn Cundi, chữ này cònđược phiên âm là Chuẩn Chi, Chuẩn Nê, có nghĩa là thanh tịnh; nói cho đủ làChuẩn Đề Quan Âm, Chuẩn Đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề hay Thất Cu Chi PhậtMẫu. Như Vậy, Chuẩn Đề hay Chuẩn Đề Quan Âm chính là một trong những danh hiệucủa Quan Âm Bồ tát. Theo Thất Cu chi Phật Mẫu Chuẩn đề Đà La Ni Kinh thì thânvị Bồ tát này có màu vàng trắng, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏasáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu trang điểm ngọc anh lạc, có 18 tayđều đeo vòng xuyến, gồm có 3 mắt. Vị Bồ tát này chuyên hộ trì Phật pháp và bảohộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi được thọ mạng lâu dài. Pháp môn tuhành của vị Bồ tát này là trì tụng bài chú: "Nam mô tát đa nẫm, tam miệutam bồ đà Câu chi nẫm, đát diệt tha, án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bàha".

Nếu ai chí thành trì tụng bài chú trên thì sẽ tiêu trừ taihọa, dứt hết bệnh tật, đạt được thông minh…, nhận được một luồng hào quangchiếu đến làm tiêu tan tội chướng, thọ mạng lâu dài, tăng trưởng phước đức:đồng thời được chư Phật, Bồ tát gia bị, đời đời kiếp kiếp xa lìa ác thú, mauchóng chứng đắc Vô thượng Bồ đề.(1)

Thiền tông xem vị Bồ tát này chỉ là một danh hiệu khác củađức Quan Âm nên rất tôn sùng. Còn tông Thai Mật ở Nhật Bản thì xếp Ngài vào địavị Phật, xem là Phật mẫu. Nhưng tông Đông Mật ở Nhật thì thừa nhận Chuẩn Đề làmột trong 6 danh hiệu Quan Âm, thuộc Liên Hoa bộ. Sáu danh hiệu này là:

1. Thiên Thủ Quan Âm;

2. Thánh Quan Âm;

3. Mã Đầu Quan Âm;

4. Thập Nhất Diện Quan Âm;

5. Chuẩn Đề Quan Âm;

6. Như Ý Luân Quan Âm.

Theo Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni Kinh thì vì để hóa độ chúngsinh mà đức Quan Âm ứng hóa thân vào trong lục đạo. Ngài ngự trị ở Biến TriViện thuộc Hiện đồ Thai tạng giới Mạn Trà la(2).

Ở đây xin giải thích thêm về từ "Phật Mẫu" mà ởtrên đã đề cập.

Phật Mẫu (Buddha màtri, Budhdha màtar) bao gồm 4 nghĩa nhưsau:

1. Chỉ cho Ma da phu nhân (Mahà màyà) thân mẫu của Phật,hoặc chỉ cho Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahà Prajàpatì) Di Mẫu của Đức Thích Ca;

2. Chỉ cho Bát Nhã Ba La Mật (panna paramita). Vì Bát Nhã(trí tuệ) có thể sinh ra tất cả chư Phật, nên Thiền tông xem Bát Nhã là PhậtMẫu (mẹ của chư Phật);

3. Chỉ cho pháp. Vì chư Phật lấy pháp làm thầy, do pháp màthành Phật, cho nên gọi pháp là Phật mẫu;

4. Chỉ cho Phật nhãn tôn. Theo Mật giáo, đây là một trongnhững hình thức thần cách hóa(3).

Quan hành trạng của Quan Thế Âm Bồ tát được trình bày trênđây hình như hơi khó thuyết phục đối với nhãn quang của giới khoa học. Tin haykhông tin là quyền của mỗi người. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấyrằng hằng ngày trên thế giới này không biết bao nhiêu thiên tai, chiến nạn xảyra, và cũng không biết bao nhiêu tấm lòng từ bi nhân ái sẵn sàng nhường cơm xẻáo hầu xoa dịu phần nào những nỗi đau thương thống khổ của đồng bào, đồng loại.Chứng kiến những cảnh tượng ấy, hiển nhiên chúng ta sẽ không còn ngờ vực gì nữavề diệu dụng từ bi cứu khổ, cứu nạn của đức Bồ tát Quan Thế Âm đối với thế giannày.

Chú Thích:

(*) Quan Âm: Tên Ngài gọi đủ là Quan Thế Âm, nhưng vì ngườiđời Đường ở Trung Quốc kiêng húy chỉ "Thế" nên gọi tắt là Quan Âm.Rồi từ đó trở về sau, nhiều người gọi mãi thành quen, vì thế mà có danh hiệuQuan Âm Bồ Tát.

(2) (3): Phật Quang Đại Từ Điển, các trang 4058, 5515, 2619.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2011(Xem: 4947)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
27/08/2011(Xem: 16551)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
21/08/2011(Xem: 7318)
Bố thí cho người bình thường, một ngày sống của họ là một ngày tham lam, si mê, thù hận, nên giá trị phước báo có giới hạn. Nhưng không lẽ vì phước báo có giới hạn mà ta ngoãnh mặt làm ngơ đối với những mãnh đời bất hạnh, ta tìm kiếm đối tượng để cúng dường như vậy sẽ dẫn đến tâm không bình đẳng cúng dường, bố thí như vậy còn có tâm phân biệt ta người.
21/08/2011(Xem: 5121)
Không ít những người lãnh đạo các quốc gia, những doanh nhân, nhân sỹ trí thức có tầm ảnh hưởng lớn đã và đang thực hành giáo pháp của Đức Phật. Họ là những người tiên phong, dám vượt qua rào cản định kiến của xã hội, của những học thuyết giáo điều cổ hủ, để chọn và đi theo lý tưởng cao đẹp của chính mình.
18/08/2011(Xem: 4662)
Con người giống như hoa sen. Đó không phải là một sự ví von của một nhà văn, một triết gia, một nhà khoa học lỗi lạc cách đây năm, bảy thế kỷ. Đó là ý nghĩ củachính Đức Phật vào buổi bình minh của nhân loại, trước khi Đức Phật quyết định nói pháp, để từ đó mà có Phật giáo. “Sau khi Đại Phạm Thiên lần thứ 3 cầu thỉnh Đức Phật thuyết pháp, với lòng từ bi, ngài nhìn chúng sanh thế gian bằng đôi mắt của một vị Phật. Ngài thấy hạng ít nhiễm ô và hạng nhiều nhiễm ô, có hạng thông sáng có hạng tối tăm, có hạng tánh tốt có hạng tánh xấu, có hạng dễ dạy có hạng khó dạy, có số ít người thấy sự nguy hiểm của những hành động sai lầm và của tái sanh. “Cũng như trong đầm sen, sen xanh, sen hồng, sen trắng.Có một số sen mọc lên trong nước, sống trong nước, không vượt lên khỏi mặt nước.Có một số sen, sanh trong nước, lớn lên trong nước và vươn tới mặt nước.Có một số sen, sanh trong nước, lớn lên trong nước và vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm ướt.Cũng vậy, Thế Tôn nhìn quanh thế giới với Ph
18/08/2011(Xem: 8597)
Những người quan tâm yêu cầu tôi nói về những đề tài nào đấy và về phương pháp tuyệt vời nhất để đối phó với những hoàn cảnh khác nhau trong đời sống. Tôi sẽ cố gắng để giải thích những vấn đề này trong một cách mà những người bình thường có thể thấy việc sử dụng khả năng của chính họ nhằm để đối diện với những hoàn cảnh bất toại, chẳng hạn như sự chết và cũng như những chướng ngại tinh thần chẳng hạn như sân hận và thù oán...Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực.
16/08/2011(Xem: 6864)
Bắt đầu từ hôm qua (13.08.11)mười ngàn người đã đến tham dự chương trình giảng huấncủa Đức Đạt-Lai Lạt-ma tại rạp Zénith của thành phố Toulouse (miền nam nước Pháp). Vị lãnh đạo hàng đầu của Phật giáo sẽ còn lưu lại đếnngày mai để nói chuyện về đề tài Nghệ thuậtmưu cầu Hạnh phúc.
15/08/2011(Xem: 5297)
Trước khi ta thọ nhận một giáo pháp, điều quan trọng là việc cúng dường một mạn đà la để thỉnh cầu giáo huấn từ đạo sư. Khi chúng ta thực hiện điều này, điều thiết yếu là ta hiểu được tầm quan trọng của những câu kệ mà ta tụng niệm cùng với sự cúng dường. Với cúng dường dâng lên các cõi Phật Nền tảng này, tẩm đầy nước thơm, rải rắc nhiều bông hoa Trang nghiêm với núi Tu Di, bốn lục địa, mặt trời và mặt trăng, Nguyện tất cả chúng sanh lang thang trong luân hồi đều được đưa về tịnh độ, Om idam guru ratna mandala-kam-nir-yatayami. Con kính dâng mạn đà la này đến chư đạo sư tôn quý.
12/08/2011(Xem: 8450)
Tại sao tôi cảm thấy cô đơn và bất hạnh? Tại sao tôi sợ hãi và bất an? Theo giáo lý nhà Phật, có thể vì tôi đã thiếu ý thức và không chịu chăm sóc ngôi nhà của mình mỗi ngày. Giáo lý nhà Phật nói rằng nếu ngôi nhà của tôi đẹp đẽ, ấm cúng, nhiều năng lượng, chắc chắn tôi sẽ khỏe mạnh và có bình an, nhất định tôi hạnh phúc và mãn nguyện.
10/08/2011(Xem: 5404)
Tháng bảy năm nay trời Tây nguyên như quay về lối cũ, mưa nhiều, nắng ít, mâygiăng, gió đùa, từng giọt lạnh, lạnh đến buồn, đúng như những gì gọi làtiết trung nguyên. Tôi ở xứ Tây nguyên trong suốt khoảng trời thơ dại, bao kỷ niệm vui buồn của tháng ngày mưa nắng, vốn đã vắng lạnh rồi, nay bỗng chợt về vào những lúc chiều mưa, tháng bảy Vu Lan, tháng thương yêu, tháng nhớ nhất, tháng mà hầu hết mọi người đang dành hết tâm tình của mình để gửi mẹ thân yêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567