Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giá trị lễ Tự tứ trong đời sống xã hội

22/09/201009:59(Xem: 14601)
Giá trị lễ Tự tứ trong đời sống xã hội

Giá trị lễ Tự tứ trong đời sống xã hội

1%2861%29

Chư Tăng Nam Tông đối thú, Ảnh Liễu Quán-Huế

Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng.

Thực tế minh chứng ngay từ thời Đức Phật tại thế, các đệ tử củaPhật, sau ba tháng an cư, vào ngày cuối cùng của mùa Hạ thì chư Tănglàm lễ Tự tứ. Khởi nguyên của ngày này là chúng Tăng an cư tự thân nghĩrằng: “Tuy mình đã gắng tu như thế, nhưng không chắc đã tránh hết lỗilầm, nên khi tròn ba tháng (rằm tháng Bảy) cùng nhau tập trung lại, cầumong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ lỗi cho. Nếu mình tựthấy mắc phải lỗi lầm, thì phải phát lồ sám hối”. Đây chính là cốt lõicủa ngày lễ Tự tứ. Mục đích của lễ này là để mỗi vị hành giả an cư tựnêu lên các tội mình đã phạm trong ba việc thấy, nghe, nghi đối trướccác vị đồng phạm hạnh khác mà sám hối. Nhờ sự sám hối này mà thân tâmthanh tịnh, tự sinh vui mừng, nên gọi là Tự tứ.

Tự tứ là dịch nghĩa chữ Phạn Phavàranà, dịch âm làBát-lợi-bà-thích-noa, Bát-hòa-la, có khi còn dịch là Mãn túc, Hỷ duyệt,Tùy ý sự. Vì thế, ngày này được mệnh danh là Tăng Tự tứ nhật - ngày chưTăng Tự tứ; cũng từ giờ phút này chư Tăng thụ giới an cư được công nhậnthêm một tuổi đạo nên còn gọi là ngày Tăng thụ tuế nhật.

Theo thiên Tự tứ tông yếu trong Tứ phần Luật san phồn bổ khuyết hành sự sao, quyểnthượng, phần 4 ghi: Phật chế hạ an cư 90 ngày, khiến Tăng chúng nhómhọp một chỗ hạ thủ công phu, hành trì giới hạnh, làm cho đạo hạnh trongsáng. Tuy nhiên, do phần lớn không nhận thức được việc làm của mình,không tự thấy lỗi lầm của mình đã phạm, nên phải nhờ đại chúng từ bichỉ bảo. Do đó, vào ngày Tự tứ, mọi người phải hết lòng bày tỏ tội lỗicủa mình, cầu thỉnh đại chúng dạy răn, bấy giờ mới hiển bày được nhữnglỗi bên trong, sai lầm bên ngoài. Nhờ sự phát lồ sám hối này mà thanhtịnh. Điểm đáng nói là Phật không cho phép Tăng chúng thực hành phipháp biệt Tự tứ, phi pháp hòa hợp Tự tứ, hữu pháp biệt Tự tứ, chỉ chophép thực hành hữu pháp hòa hợp Tự tứ đúng như tinh thần của Kiền độ Tựtứ trong luật Thập tụngđã ghi.

Rõ ràng, theo Luật Phật thì mục đích của lễ Tự tứ là xây dựng đờisống Tăng già hòa hợp thanh tịnh, trên cơ sở tự thân tu tập phạm hạnhtinh khiết. Quan điểm của Phật giáo thường được ghi trong các bản kinhlà có hai hạng người đáng quý nhất ở đời. Đó là hạng người suốt đờikhông bao giờ tạo ra tội lỗi, một hạng người có tạo ra tội lỗi mà thànhtâm sám hối, từ bỏ. Do đó, bất cứ người đệ tử Phật nào cũng phải quántriệt tinh thần này. Nhất là các vị xuất gia, sống đời sống phạm hạnh,không gia đình, hướng tâm đến mục đích giải thoát tối hậu. Hẳn nhiên,ba tháng an cư không phải chỉ là thời gian để hành giả thành tựu phạmhạnh, sự giải thoát, nó còn đòi hỏi hành giả phải trải nghiệm, hạ thủcông phu cả quá trình qua một thời gian nhất định với một không gian,môi trường tu tập thích ứng. Nhưng công bằng mà nói, khoảng thời gianba tháng an cư hàng năm là thời gian mang tính chất quyết định, mangdấu ấn lớn trong việc dốc lòng, nhiệt tâm tinh cần, chứng đạt giác ngộcủa một hành giả. Tại đây, mọi tâm lý mang tính chất “cái này là củatôi, là tôi, tự ngã của tôi” có thể tự rơi rụng, thay vào đó là thái độsống vô ngã, sẵn sàng lắng nghe các đối tượng và tiếp nhận - sàng lọccác các thông tin để hành xử đúng với mọi người, mọi điều với sự soirọi của chánh kiến.

Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giảtrong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồngphạm hạnh khác. Lòng tin vào tự thân có giá trị quyết định cho sự hoànthiện nhân cách, thăng chứng tâm linh, thành tựu giới đức, tâm đức, tuệđức sau ba tháng nỗ lực tinh tấn tu hành. Và ngay giờ phút thiêng liêngcủa lễ Tự tứ, hành giả tin mình đã chuyển hóa nội tâm, đã thành tựu,đã chứng đạt. Điều quan trọng hơn nữa, do tự mình phát tâm muốn sám hốinhững điều sai phạm mà chính bản thân không thấy, không biết, khôngnghe nên khởi tâm tin các vị đồng phạm hạnh khác một cách tuyệt đốitrong tinh thần tôn trọng, hòa hợp, vị tha, bao dung độ lượng, công tâmvà bình đẳng.

Cho nên, hành giả an cư khởi niềm tin vào người đứng ra cử tội có đủ nămphẩm tính đúng như Luật định:

1.Hỏiđúng lúc, đúng thời.

2. Thành thật, không có sự dối trá, thêm bớt nào.

3. Vì lợi ích, chứ không vì sự tổn hại.

4. Vì từ tâm, chứ không có sựác ý.

5. Ngôn ngữ từ ái, không thô lỗ.

Trong khi đó người nhận Tự tứ,người mà mình cầu thỉnh nhờ họ chỉ giáo cũng phải hội đủ năm phẩm tính:

1.Không được thiên vị bất cứ ai.

2.Không khởi tâm sân hận.

3.Không được si mê.

4.Không được khiếp sợ.

5.Biết ai Tự tứ rồi, ai chưa Tự tứ.

Và như thế, tính chất bình đẳng hòahợp thanh tịnh trong lễ Tự tứ được xem như điều kiện cần và đủ để buổilễ được thành tựu viên mãn.

Do đó, Luật cũng đề cập đến trường hợp một người khi muốn cử tộingười khác hay ngăn cản người khác Tự tứ thì trước hết ba nghiệp thânkhẩu ý của người đó phải thanh tịnh hoàn toàn. Nếu một trong ba nghiệpthân - khẩu - ý không thanh tịnh thì lời cử tội ấy không có giá trị.Trong tiến trình cử tội người khác về việc thấy, nghe, nghi phải giảitrình một cách rõ ràng, có chứng cứ xác thực; ngược lại trong khi trìnhbày thiếu sự hợp lý, bị chất vấn mà giải đáp không thỏa đáng thì bấygiờ luật sư có quyền phủ quyết và kết tội trở lại với vị đó với một tộidanh thấp hơn một bậc đối với một tội mà đã tố cáo người khác. Thí dụcó một vị tố cáo một người nào đó phạm tội Tăng tàn thì sẽ bị luật sưkết tội vị tố cáo phạm Thâu lan giá…

Ngoài ra, trong tiến trình Tự tứ, có vị Tỳ kheo nào từng phạm tội màđại chúng không biết, không có ai cử tội, xem như đã thông qua. Tuy vậy, sau khi Tự tứ, nếu ai cố tình cử tội lại thì phạm luật. Rõ ràngnội dung lễ Tự tứ mà chư Tăng thực hiện là nhằm giáo dục, giáo hóa hơnlà sự chỉ trích hay trừng phạt. Vấn đề tự ý thức, tự giác hành trì vàsống đúng luật nghi không chỉ tự tôn trọng phẩm hạnh của cá nhân mà đảmbảo tính hòa hợp thanh tịnh của đoàn thể Tăng già nữa.

Từ nội dung ý nghĩa của việc thực thi lễ Tự tứ nói trên, giá trị xãhội của lễ này có tác động lớn vào việc thiết lập đời sống đạo đức hạnhphúc của con người. Thời gian an cư là thời gian chư Tăng tập trung tuhọc, thành tựu phạm hạnh, thăng chứng đạo quả. Cũng chính thời gian nàymà giới tại gia được nương tựa chư Tăng tu hành trong một môi trường tutập lý tưởng nhất, có thiện duyên để hành trì nếp sống đạo đức, tudưỡng bản thân, bình an nội tại. Lễ Tự tứ cũng nhằm giáo hóa thái độsống tự ý thức hoàn thiện nhân cách của chính mình.

Theo dòng tâm lý đời thường, con người luôn tìm cách che giấu sợngười khác biết thì xấu hổ, hay né tránh lỗi lầm của mình khi bị ngườikhác nêu ra; hoặc trong trường hợp bị truy hỏi, không thể chối bỏ đượcmới thừa nhận; ngay cả khi tự mình nhìn ra lỗi lầm, tự phát tâm sám hốicũng âm thầm khấn nguyện trước Tam bảo. Phật dạy đây là một thái độsống thường tình của con người, do bị thói quen thích nhìn lỗi ngườikhác, chứ không biết tự nhìn lỗi của mình. Từ một quan điểm sống nhưvậy, nó sẽ dẫn đến sự cố chấp, bảo thủ, chủ quan, không bao dung và độlượng trong lúc hành xử với các mối quan hệ giữa người và người. Cókhi, cách sống này còn dẫn đến sự tha hóa đạo đức trong việc xây dựngcái “tự ngã” vốn không thật có trong cuộc đời này. Nhà Phật cho đó làchướng duyên lớn trong tiến trình tu tập, thực nghiệm tâm linh mà mỗicá nhân, gia đình cần phải từ bỏ để có thể sẻ chia, tự nhìn lại mìnhtrong việc kết nối yêu thương một cách trọn vẹn.

Trái với thái độ sống trên, Phật giáo thông qua lễ Tự tứ nhằm kếtnối các giá trị đạo đức con người chung sống trong một môi trường, mộtcộng đồng lý tưởng. Sự thật con người tự nhìn nhận về lỗi lầm của chínhmình là rất khó, ngay cả trước người thân như cha mẹ anh em, bà conquyến thuộc. Thế nhưng đối với người học Phật thì cái tâm lý tự giápmặt cái tôi của chính mình sẽ tự phải tháo bỏ, thay vào đó là thái độmong cầu được sửa chữa sai lầm, được trở nên hoàn thiện, thăng hoa.Bằng chứng các vị xuất gia, hành giả an cư là những vị thầy của quýPhật tử đã thực thi. Từ điểm nhìn này, bất cứ ai cũng tự thành thật, tựhoàn thiện nhân cách, sẽ góp phần đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọingười. Cho nên kinh Tăng Chi dạy “Nơi nào có chư Tăng tu tậpthanh tịnh thì trú xứ đó được thanh tịnh, hội chúng Phật tử nương theođó mà tu tập, nhất định được an lạc, thanh tịnh”.

Tự tứ cũng là ngày chư Tăng được tăng thêm tuổi hạ, ngày đánh dấu sựthành tựu trong việc tu tập, cũng là ngày mọi người hướng tâm báo hiếucha mẹ, người còn kẻ mất, ngày xá tội vong nhân, tha thứ cho những lỗilầm, chúc mừng vì những niềm vui đạt được; vì vậy ngày này chư Phậtmười phương ba đời đều hoan hỷ. Thế nên, ngày Tự tứ còn gọi là ngàyPhật hoan hỷ. Vậy là không có lý do gì mà trong mỗi chúng ta lại khônghân hoan, không hoan hỷ để sống, để tu, để đóng góp cho đời khi tự mìnhbiết rằng “Chúng sanh là một vị Phật sẽ thành”.

ThíchPhước Đạt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6980)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8327)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16572)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8544)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6423)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5601)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7194)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7213)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7814)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6094)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]