Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giá trị giải thoát của ngày lễ Vu lan

22/09/201009:40(Xem: 12591)
Giá trị giải thoát của ngày lễ Vu lan

Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến.

1. Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạoPhật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạoPhật trở thành lễ hội truyền thống của dân tộc. Vì thế, nhân dân ta,người theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, cứ đến ngày rằm tháng Bảyhàng năm, đều có tục lệ lên chùa, sắm sửa chút lễ vật, dâng tấm lòngthành của mình cầu mong cho những người đã khuất, thoát khỏi cảnh tamđồ, siêu sinh Lạc quốc; người còn sống nương theo sự hành xử hiếu hạnhnày mà cởi trói phiền não, thân tâm an lạc, vạn sự an lành:

Rằm tháng Giêng ai siêng thì quảy,

Rằm tháng Bảy người quảy khắp nơi”.

Rõ ràng, cội rễ của lễ Vu lan, suy cho cùng, nó phải được xuất pháttừ cái tình người, từ “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.Chính Đức Phật cũng từng chỉ dạy: “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinhtừng là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em trong vòng sống tương tục,mãi hoài”. Đạo lý của dân tộc Việt Namlà “Thương người như thể thương thân”. Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gìkhi ca dao Việt Nam ghi nhận về sự sinh hoạt 12 tháng của dân tộc ta,đã dành một tháng Bảy (âm lịch) để nói về công hạnh lễ Vu lan và ảnhhưởng của ngày lễ này đối với truyền thống tín ngưỡng văn hóa của dântộc như là đạo lý sống của người dân Việt. Đây là thái độ sống biết rõcội rễ của con người trong ý nghĩa tồn tại và phát triển, đều phải đượcxuất phát từ tâm hiếu, mang thực tính yêu thương, đầy bao dung, thathứ, vô ngã, vị tha trong dòng sống tương tục này. Thế nên, ta mới biếtmình thương thân như thế nào thì thương thân người khác như thế ấy. Tạiđây, mọi giá trị yêu thương “thật” của con người mới được hiển lộ quathái độ, quan điểm sống của mọi cá nhân hiện hữu, trong cuộc sống vốnluôn biến động không ngừng.

2.Do lễ Vu lan được nhân dân ta nhìn nhận là ngày lễ hộivăn hóa tình người, nên nó được truyền thông gắn liền sự kết nối yêuthương giữa tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhiều đời, vô thỉ vô chung với concháu đời này, đời sau; giữa quá khứ, hiện tại và tiếp nối tương lai củangười còn và kẻ mất trong dòng sống tương tục. Đúng như văn chương dângian truyền tụng:

Cha già là Phật Thích Ca,

Mẹ già như thể Phật bà Quan Âm

Nhớ ngày Xá tội vong nhân

Lên chùa lễ Phật đền ơn sinh thành”.

Vì vậy, ngày lễ Vu lan còn có ý nghĩa nhân văn thiêng liêng với têngọi là ngày Xá tội vong nhân. Vào ngày này, bất luận là ai, người tacũng hướng tâm cầu nguyện cho mọi người quá vãng được siêu sinh, thoátkhỏi cảnh giới tam đồ địa ngục. Theo triết lý Duyên khởi, thì ngày nàycàng có ý nghĩa hơn, khi người ta càng thực hành và thể hiện tâm hiếuhạnh đối với cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộc, bằng hữu và nhữngngười xung quanh mình trong thái độ sống tri ân và biết ân. Thông quacác giá trị huyền sử của sự tích Vu lan, được bắt nguồn từ việc báohiếu của Tôn giả Mục Kiền Liên, câu chuyện muốn cảnh thức người nào tạotội ác thì sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu thống khổcũng giống như người bị treo ngược. Thế nên, mỗi lần nghĩ đến công ơnsinh thành cha mẹ, hoặc những người đã từng cứu độ mình, khi mùa Vu lanđến là họ lên chùa nguyện cầu Tam bảo, cùng với chư Tăng khấn nguyệncho các vị tiền nhân, cha mẹ ông bà, người thân quá vãng ra khỏi địangục, thoát cảnh bị treo ngược:

Nhờ phép Phật sinh Tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch,

oán thù rửa không

Nhờ Đức Phật thần thôngquảng đại

Chuyển pháp luân tam giới,thập phương…

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào

Gái trai già trẻ cùng vào nghe kinh…”.

(Nguyễn Du - Văn tế thập loại cô hồn)

Đối với cha mẹ hiện tiền, thân bằng quyến thuộc, ngoài việc phụngdưỡng vật chất, báo đáp ân sinh thành dưỡng dục, mọi người còn phảibiết hướng dẫn cha mẹ và người khác hướng tâm đến Tam bảo, thực thihạnh lành trong ý nghĩa kết nối yêu thương và hiểu biết, khoan dung vàđộ lượng từ điểm nhìn của giá trị hạnh phúc tình người. Đây là giá trịthứ hai mọi người cần tâm niệm.

3. Giá trị thứ ba, mọi người cần nhận thức rõ là ngày Vu lancũng là ngày kết thúc ba tháng an cư kiết hạ, được mệnh danh là ngàyTăng tự tứ. Tự tứ là dịch nghĩa chữ Phạn Pravàrana, phiên âm làBát-hòa-la, dịch nghĩa là tùy ý. Nghĩa là mỗi Tỳ kheo sau ba tháng ancư, trau dồi giới đức phải tự mình phát lồ sám hối; hoặc nhờ các vịđồng phạm hạnh nếu thấy, nếu nghe, hoặc nghi ta phạm lỗi thì sẵn lòngchỉ bảo, để ta nương theo đó mà sám hối sửa đổi những sai lầm. Đây làviệc làm hết sức cao quý trong ngày tự tứ của chư Tăng. Điểm đáng nóilà trong ngày lễ này, các Tỳ kheo tự thân cầu người khác chỉ lỗi chomình và mình phải đối trước Tăng mà thưa “Thưa Đại đức, hôm nay chúngTăng tự tứ, tôi cũng tự tứ. Tôi có điều gì sai phạm mà Đại đức thấy,nghe, hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếu tôi thấy phạm thìxin như pháp sám hối. Tôi không phàn nàn, không thắc mắc, và tôi khôngoán trách gì Đại đức hết”. Như vậy, đây chính là ý nghĩa mong cầu giảithoát, mong cầu được thanh tịnh sau tự mình phát lộ và sẵn sàng sửa đổilỗi lầm, tội lỗi.

Và như thế, ngày Tự tứ có ý nghĩa mong cầu giải thoát hệ lụy khổđau, do người khác chỉ ra từ các lỗi mình đã tạo. Nó cũng khẳng địnhsức mạnh niềm tin của mỗi vị Tăng trên bước đường tu học giải thoát.Một mặt, nó thiết lập lòng tự tín đối với chính tự thân mỗi hành giả,tin mình đã thăng tiến đạo hạnh, tin mình thành tựu công đức giải thoátsau ba tháng tịnh tu tam nghiệp. Mặt khác, nó cũng làm cho hành giảkhởi lên niềm tin giải thoát đối với các vị đồng phạm hạnh là nhữngngười thanh tịnh, thăng chứng đạo hạnh, có tâm vị tha, tâm bao dung, độlượng để chỉ bảo cho mình các lỗi lầm còn mắc phải. Nhờ vậy, tự thânmỗi hành giả, sau ba tháng an cư giới đức được thanh tịnh, định nghiệptăng trưởng, trí tuệ khai mở. Trên hết là đại chúng hòa hợp, thanhtịnh; Chánh pháp được trường tồn.

4. Cũng trong ngày lễ tự tứ này, mà chúng Tăng, mỗi người thụgiới an cư mãn hạ được nhận thêm một tuổi đạo, nên ngày này còn đượcgọi là ngày Tăng thọ tuế. Theo luật Phật chế, hàng xuất gia tính tuổitheo hạ lạp. Nghĩa là, năm nào vị Tỳ kheo đó có an cư kiết hạ trọn vẹnmới được Tăng già công nhận một tuổi hạ. Do đó, ngày này cũng có ýnghĩa quan trọng đối với chư Tăng. Bởi vì, nó minh định, khẳng định chosự thành tựu đạo nghiệp của người xuất gia học đạo, tu đạo và chứng đạotrong lộ trình hướng tâm cầu giải thoát. Ngày Tăng thọ tuế cũng là ngàyTết của chư Tăng, ngày chư Tăng được tính thêm tuổi đạo, có giá trịkhác hẳn với tuổi đời. Tuổi đời thì được tính theo thời gian năm thángcủa năm; còn tuổi hạ thì được Giáo hội Tăng già công nhận do sự kếttinh những công đức tu tập, sự tinh chuyên tu trì giới định tuệ trongba tháng an cư mà chứng đắc, mà sở ngộ của mỗi hành giả. Nhờ công đứcnày mà hội chúng được an lạc, giáo pháp từ đó được xương minh. Đâychính là giá trị giải thoát thứ tư chúng ta hướng tâm nghĩ đến.

5.Cuối cùng, giá trị giải thoát mà chúng tôi muốn nói nữa,ngày Vu lan cũng là được gọi là ngày Phật hoan hỷ. Suy cho cùng, các đệtử của Thế Tôn đã thực thi lời Phật dạy, giữ đúng truyền thống luậtPhật chế, trau dồi thân tâm ba tháng, tịnh tu tam nghiệp, thành tựu mụcđích tối thượng mà Phật mong mỏi. Hơn nữa, ngày này là ngày kết tinhmọi thành tựu, mọi giá trị giải thoát đã nói trên. Sau ba tháng kiếthạ, chúng Tăng nhờ vậy mà thành tựu công đức thù thắng. Chư Phật mườiphương vô cùng hoan hỷ. Không ai khác hơn, Tăng bảo là một trong bangôi Tam bảo, thay Phật truyền bá Chánh pháp ở giữa thế gian này. Giớitại gia cũng nhân ba tháng này mà nương vào chư Tăng tu học, hộ trì Tambảo mà thành tựu thiện pháp, bao nhiêu nghiệp chướng được tiêu trừ,thân tâm được an lạc. Trên hết, mọi người đến với nhau bằng cả tâmhiếu, hạnh Phật để kết nối sự yêu thương, xóa tan hận thù, và chungsống với nhau bằng sự hòa bình, bình đẳng, hạnh phúc thật sự.

Với tất cả ý nghĩa giải thoát như thế, lễ Vu lan thật sự đi vào tâmthức đời sống văn hóa tâm linh con người. Nó không chỉ kết nối mọi giađình bà con huyết thống ở một đời trong một gia đình, một họ tộc mà cònthắt chặt với nhau bằng cái tình đồng bào, tình nhân loại thông qua mọithời gian và mọi không gian. Giá trị lớn nhất của lễ Vu lan là xây dựngđược một thái độ sống, một nếp sống giải thoát tất cả các khổ đau hệlụy; trên hết là hướng tâm đến việc thiết lập hạnh phúc và an lạc khởiđầu bằng “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5593)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5509)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6907)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4291)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9118)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5456)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5081)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5675)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6157)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5170)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]