Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tết & sự thăng hoa trong đời sống

13/01/201201:15(Xem: 8553)
Tết & sự thăng hoa trong đời sống
Tết & sự thăng hoa trong đời sống
Thị Giới

Không biết Tết có từ bao giờ vàbắt nguồn từ đâu, nhưng đúng là Tết có một cái hồn. Dù sống ở đâu và làm gì,người Việt trên khắp thế giới ít ai không rạo rực mỗi khi Tết về. Tết cũng là ngày hội lớn của cả nước đã có từ ngàn xưacho nên cái hồn của Tết cũng là một phần cái hồn của đất nước. Trong Tết có mùivị đất và nước của quê hương.

Có một truyền thuyết nói rằng, xưa kia, vào ngàyTết, vua Hùng và quần thần đưa nhau lên núi (Thiên Cầm) để nghe “cung đàn nhàtrời”. Thật là một hình ảnh đẹp.

Một người ngoại quốc viết về Tết:

“… Tôi không hiểu được Việt Nam và văn hóa Việt Nam cho đến khi tôi hiểu được Tết.Đó không phải là một việc đơn giản và dễ dàng. Khí hậu có thể lạnh và tôi cóthể phải ăn nhiều, tôi có thể sợ tiếng pháo nổ. Nhưng bên sau tất cả những thứđó là một niềm vui, ý thức về sự thay đổi và niềm hy vọng vào tương lai. Tiếngđộng đánh thức đêm tối dày đặc. Phổi tôi có thể khó thở vì khói, đầu tôi có thểđau vì tiếng pháo nổ, nhưng cơ thể tôi cảm thấy sinh động và khoan khoái mộtcách lạ lùng, và quan trọng nhất, một tâm thức cảm nhận được sức mạnh của nhữngđiều xảy ra quanh tôi. Việt Namđã thay đổi. Ít nhất trong những phút giây ngắn ngủi, nó bình bồng giữa thực vàmộng, giữa trời và đất. Là một người ngoại cuộc, có thể tôi không bao giờ hiểutrọn vẹn ý nghĩa của Tết, nhưng tôi biết rằng tôi đang tận mắt nhìn thấy mộtcái gì đẹp đẽ và quý giá. (DanaSachs)

Nếu hỏi cái hồn của Tết nằm ở chỗ nào thì khó ai cóthể chỉ ra, nhưng nó thấm đẫm trong lòng người, hiện ra qua phong cách sống gắnliền với Tổ tiên non nước, với đình đài chùa miếu, qua những phong tục, lễ nghikết nối quá khứ với hiện tại, hữu hình với hữu hình, hữu hình với vô hình…

Một khía cạnh đặc biệt đẹp đễ của ngày Tết là việcbiểu hiện lòng nhớ ơn. Cái nhớ ơn của người Việt bao gồm nhớ ơn Tổ quốc, đồngbào, nhớ ơn tiền nhân, cha mẹ, nhớ ơn những người đã đem đến cho cộng đồng niềmtin và sức mạnh, làm cho cuộc sống thăng hoa và có ý nghĩa. Nếu so sánh với sựnhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơntrong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh. Ơn Tam bảolà ơn những cội nguồn đã đem đến cho con người một đời sống tinh thần phongphú, vượt qua sự hạn hẹp của đời sống ích kỷ, hơn thua. Người Việt chúng taluôn luôn nhớ ơn những bậc được gọi là người hiền. Những vị thánh thiện, nhữngvị có đời sống thăng hoa được thờ phụng khắp nơi trên đất nước. Đôi khi, nhữngvị có công với đất nước được đồng hóa với những vị Thánh, như Thánh Gióng đuợcđồng hóa với Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một vị Thánh giúp đời, hộ Đạo, cũng là mộtvị Cổ Phật trong truyền thống Phật giáo, để trở thành Phù Đổng Thiên Vương.

Tết cũng biểu hiện tính chất Lễ và Hòa trong đờisống Việt. Tình cảm tương quan giữa con người với nhau và với thế giới hữu hìnhcũng như vô hình của người Việt là một thứ tình cảm đậm đà và lãng mạn mà khôngra ngoài Lễ và Hòa. Tết là ngày vui, ngày tỏ bày tình cảm trong Lễ và Hòa.

Không gian và thời gian Tết cũng như những tínhchất của Tết được tô bồi qua nhiều ngàn năm, làm cho Tết trở nên một cơ hội chongười Việt chúng ta dừng lại để sống thật sự với đời sống. Cũng có thể nói Tếtlà một cơ hội để chúng ta “sống chậm”. Sống chậm là một lối sống biết soi rọichính mình. Khi biết soi rọi chính mình, con người sẽ sống tự giác và có tráchnhiệm hơn. “Sống chậm” có thể nói là một nhu cầu của thời đại, khi mà khuynhhướng vật chất và trục lợi khống chế hầu như mọi sinh hoạt của con người. Nhữngkiêng cữ trong ngày mồng một Tết có thể được coi như một loại “kiêng cữ để sốngchậm”: ý tứ trong từng ý nghĩ, hành động và lời nói để không giận hờn hay tạosự giận hờn, không nói năng và hành động thô lậu, ồn ào, giữ tâm hồn thoải mái,vui tươi… Nói tóm lại là cố gắng giữ thân, miệng, ý không tham, sân, si hay tạora tham, sân, si trong ngày Tết.

Tết cũng là ngày của hoa. Hai loại hoa đặc trưngcủa Tết là đào và mai. Hoa là hình ảnh của cái đẹp vô thường, ngắm hoa là ngắmsự mong manh vô thường của đời sống. Và chính sự vô thường làm cho đời sống cóý nghĩa và con người có cơ hội thăng hoa.

Trong đời sống bận rộn hàng ngày, chúng ta thườngkhông để ý nhận ra cái nền tảng hướng dẫn đời sống của chúng ta. Nó vô hìnhnhưng mạnh mẽ. Có thể nói đó là cái chất sống, cái nguồn sống trong mỗi chúngta. Và Tết, cơ hội để chúng ta có những khoảnh khắc dừng lại, là dịp để chúngta phát hiện ra “tố chất của đời sống” vốn có đó. Khi yên lặng lắng nghe hơithở, yên lặng lắng nghe bước chân đang bước, lắng nghe thời gian đang trôi,không gian đang mở…, chúng ta nghe được sự sống, nghe được nguồn sống đang hiệndiện bên trong cũng như bên ngoài chúng ta. Khi mở lòng để tiếp đãi đời sống,tiếp đãi đất trời, tiếp đãi mọi người mọi vật, chúng ta có cơ hội nghe được đờisống, nghe được nguồn sống nơi chúng ta và chung quanh chúng ta.

Ngày xưa các cụ thường khai bút đầu năm. Trong cáiyên tĩnh, lắng đọng của không gian và thời gian, con người mở ngỏ mọi ngăn cáchđể lắng nghe. Khai bút đầu năm có thể được coi là cơ hội để dừng lại và lắngnghe với một tâm hồn mở toang trong không gian và thời gian rộng lớn của giờphút giao thừa.

Do đó, Tết cũng có thể là cơ hội để chúng ta pháthiện ra hay tìm thấy lại chính chúng ta. Và sự phát hiện ra chính mình là bướcngoặt lớn trong đời sống của mỗi người. Đó là lúc con người nhận ra được mìnhthật sự là gì trong cái toàn thể để có thể sống có ý nghĩa hơn.

Mùa Xuân đất trời cho tôi sự liên tưởng đến một mùaXuân đạo. Mùa Xuân đạo có được khi con người biết trân trọng đối với đời sống,trân trọng đối với những cơ hội để thăng hoa mà cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàngban cho chúng ta. Những cơ hội đó có được từ tính chất vô thường của đời sống.

Nhận biết được vô thường là nhận biết được tánhPhật, nhận biết được “không thân”, để từ đó có được thân cùng khắp và tâm cùngkhắp, hay nói theo ngôn ngữ của kinh điển là có được “hiện nhứt thiết sắc thântam muội” và “giải nhứt thiết chúng sanh ngôn ngữ đà la ni”, để có thể đồnghành với tất cả chúng sanh trong không gian và thời gian vô tận, một lý tưởngthật đẹp của đạo Phật Đại thừa.

Tôi nhớ đến một phẩm trong kinh Pháp Hoa. Một điềuchúng ta để ý là trong kinh Pháp Hoa và những kinh Đại thừa khác, không gian vàthời gian thường rất rộng lớn. Không gian và thời gian là hai thứ tương quanmật thiết với nhau. Một tâm thức nhỏ hẹp luôn luôn tương ứng với một loại thờigian ngắn ngủi nhưng dường như nặng nề kéo lê. Một tâm thức rộng lớn luôn điđôi với một thời gian rộng lớn nhưng như thoáng qua nhẹ nhàng.

Phẩm Dược Vương Bồ tát Bổn Sư thứ 23 nói rằng, cómột vị Bồ tát tên là Tú Vương Hoa hỏi Phật về hành trạng của Bồ tát Dược Vươnghay Bồ tát Vua Thuốc. Đức Phật trả lời vị Bồ tát đó như sau:

Vào thời rất lâu về quá khứ, trong Pháp hội PhápHoa của Đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức, Đức Phật có đức hạnh sáng rỡvà trong lành như mặt trời mặt trăng, có một vị Bồ tát tên là Nhứt Thiết ChúngSanh Hỷ Kiến, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìn thấy đều sinh tâm vui vẻ. VịBồ tát đó, sau một thời gian dài tu tập kinh Pháp Hoa thì chứng được “hiện nhứtthiết sắc thân tam muội” hay khả năng “hóa hiện ra mọi hình tướng”.

Để báo đáp ân đức của Phật Nhựt Nguyệt Tịnh MinhĐức, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường vô số những món trangnghiêm và thanh tịnh, sau đó tự đốt thân để cúng dường. Hành động đốt thân cúngdường được các Đức Phật trong mười phương đồng khen ngợi là việc cúng dườngPháp cao tột. Và khi nói xong lời khen ngợi đó, các Đức Phật “đều yên lặng”.(theo bản dịch của HT.Thích Trí Tịnh).

Sau khi đốt thân, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh HỷKiến lại tái sanh cũng trong thế giới của Đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức vàgặp lại Phật này, được Phật giao phó mọi thứ trước khi Ngài nhập Niết-bàn.

Một lần nữa, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìnthấy đều sinh tâm vui vẻ, lại dùng thân để cúng dường xá lợi Phật bằng cách đốthai cánh tay “trăm phước trang nghiêm”. Hành động đó cũng làm cho vô số ngườichứng được “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội”.

Cuối cùng Đức Bổn Sư nói: Vị Bồ tát mà tất cảchúng sanh nhìn thấy sinh tâm vui vẻ đó chính là Bồ tát Dược Vương. Đức Phậtcũng nói rằng, những ai nghe phẩm kinh này sẽ được tam muội “Giải nhứt thiếtchúng sanh ngôn ngữ đà la ni” hay khả năng hiểu được ngôn ngữ của tất cả chúngsanh…

Phẩm kinh nói lên rằng, tánh Phật và cơ hội thănghoa ở ngay trong tính chất vô thường của đời sống. Nhận ra tính chất vô thường,vô ngã của đời sống, con người nhận ra tính chất “không thân” của mọi sự và củachính mình. Tính chất “không thân” cũng là ánh sáng soi rọi của Pháp, là chỗ màchư Phật “lặng yên”, là tánh Phật, là nền tảng của buông xả và tùy thuận, củakết nối và cảm thông, là thuốc chữa lành bệnh cho mình và cho người.

Trở lại với Tết. Với khả năng mở ngỏ mọi ngăn cáchđể tiếp xúc với nguồn sống chân thật, phải chăng trong dịp Tết, chúng ta có thểlà một vị Bồ tát mà tất cả mọi người nhìn thấy đều cảm nhận được niềm vui, trởthành những vị Bồ tát chữa lành bịnh cho nhau?

Trong khung cảnh kết nối và cởi mở, chấp nhận vàtương kính, con người chắc chắn sẽ đem đến cho nhau niềm vui. Một nụ cười, mộtlời chào hỏi, một câu xin lỗi, một chia sẻ thông cảm, một sự bỏ qua… chính lànhững thang thuốc chữa lành vô số chứng bịnh nan y của mình, của người.

Phải chăng sự mở lòng, xả bỏ, hòa nhập, kết nối…,nhìn thấy mối tương quan, tương thuộc giữa cá thể với toàn thể dễ nhận ra trongngày Tết làm cho con người đến gần hơn với tính chất “không thân” của đạo Phật,hiểu rõ hơn về “ánh sáng đốt thân” của chư vị Bồ tát?

Và phải chăng mọi ánh sáng đều phát xuất từ nềntảng “không thân”?

Thời gian là một chuỗi những biến đổi qua nhiềuthử thách để thoát thân thành những mùa Xuân. Chúng ta hãy như thời gian, theogương Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, không ngừng thay đổi theo hướngthăng hoa mà thời gian luôn cho chúng ta cơ hội, để mỗi dịp Tết về, cảm thấygần gũi hơn với mùa Xuân chân thật, ở đó, mọi người là những vị Bồ tát củanhau.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4711)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7554)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12141)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]