Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ẩn Dụ Một Đóa Mai

20/09/201016:19(Xem: 7347)
Ẩn Dụ Một Đóa Mai

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai.

Sựhiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai đã đánhlay tâm thức của người đọc một cách bất ngờ, tạo ramột mối nghi tình cho hành giả, trong hai câu song thất kếtthúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho nhữngngười đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài, chúngvẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực đểnói về sự hiện hữu của chúng.

Vì ở đây, chúng ta mỗingười phàm tình, đang sống với cảm giác cảm tính chứkhông phải trí giác của trực giác lý tính, do đó mỗi ngườicó mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm tính tình cảm thiên kiếncủa mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ thuộc vàochủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện.Ở đây, mọi người đều có quyền thể hiện, nhưng sựthể hiện đó, chúng được đánh giá như thế nào còn tuỳthuộc vào tính phổ quát được mọi người chấp nhận vàđồng tình hay không, đó là điều đáng nói; còn chuyện muốnvượt qua khỏi mức độ cho phép, thì đó là một chuyệnkhác, hãy để dành cho đức Phật Di Lặc (hay những vị đạtĐạo) sau này ra đời giải quyết nghi!

Ẩndụ của một đóa mai theo ngôn ngữ luận lý tương đối,chúng ta có thể có khả năng tháo gỡ bóc vỏ để chúng hiệnhữu như chính chúng, trong việc phân tích bằng vào ngôn ngữmà mọi người có thể chấp nhận được thì trước hết,chúng ta phải biết qua xuất xứ của bài kệ này, để từđó đánh giá đúng hơn về tư tưởng ẩn dụ này qua bàikệ, sau nữa là người viết và người đọc phải tham dựvào, tiến trình động não phân tích qua pháp phủ định nhữngnguyên tắc, tưởng chừng như là một chân lý khó phá vỡvượt qua, do kinh nghiệm thói quen tập quán mang lại trên mặthiện tượng. Trước khi thị tịch ngài có để lại cho chúngta một bài kệ nhân khi ngài cáo bệnh dạy chúng:

"Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuânđến trăm hoa cười.

Việcđời qua trước mắt,

Giàđến trên đầu rồí!

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai."

(ThiềnUyển tập anh).

Quaxuất xứ bài kệ dạy chúng trước khi người thị tịch vànội dung của chúng, đã kết hợp đủ để chúng ta có mộtcái nhìn tổng quát về mặt hiện tượng (tướng-dụng) vàẩn dụ (thể).

Đứngvề mặt hiện tướng là một vị thiền sư, ngài nói lêncái chức năng của một người dẫn đường trước khi mìnhqua đời, để cảnh tỉnh những người còn lại sau này quaviệc sống-chết. Cho dù bằng vào những kinh nghiệm sống,những thói quen tập quán, mà con người đã rút ra đượcnhững chân lý mang tính phổ quát được mọi người chấpnhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ chân lý củatương đối thôi. Vì sao? Vì việc đến đi của mùa xuânchúng tùy thuộc vào vô thường, nếu không có vô thườngthì sẽ không có đến-đi, và không có đến-đi thì sẽ khôngcó mùa xuân. Do đó, việc: "Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đếntrăm hoa cười." chỉ là hiện tượng biến dịch (vô thường)THƯỜNG chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việcsống chết của con người mà lý vô thường luôn được hiệnhữu một cách thường xuyên, để thể hiện luật tắc Duyênkhởi trong hiện tướng (trongThành-trụ-hoại-không) của cácpháp. Chỉ vì chúng ta không nhìn ra được cái lý ẩn của:"Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu rồi," nêntừ sự vô thường bất toàn của các pháp, con người đâmra ham sống sợ chết, sống vui chết buồn, và cũng từ đómọi sự sợ hãi được hình thành, ám ảnh con người, đểrồi các thứ bệnh tà kiến phân biệt chấp trước đua nhauxuất hiện trong cái lòng tin mù quán của mọi người. Đâycũng là điều mà chính đức Phật đã dạy trong kinh Kalama:

Đừngvội tin tưởng vào bất cứ điều gì mà chúng ta thườngnghe nhắc đi nhắc lại luôn luôn. Đừng vội tin tưởng vàođiều gì mà điều đó được coi như là một tập tục từngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng vào những sáo ngữ màngười ta thường đề cập đến luôn. Đừng tin tưởng bấtcứ điều gì dù đó là bút tích của thánh nhơn. Đừng tintưởng vào điều gì dù là thói quen từ lâu, khiến ta nhậnlà điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởngtượng ra mà lại nghĩ rằng do một vị tối linh đã khai thịcho ta. Đừng tin tưởng vào bất cứ điều gì mà điều đóchỉ dựa vào uy tín của các thầy dạy cho các người. Nhưngchỉ tin tưởng vào cái gì mà chính các người đã từng trải,kinh nghiệm và nhận cho là đúng, có lợi cho mình và ngườikhác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa chocon người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉnam cho mình.

Chínhvì sự sợ hãi trước cuộc sống-chết của chính mình, quanhững biến động đổi thay của vô thường luôn luôn hiệnhữu bên cạnh, nên lòng mê tín dị đoan của chúng ta nổidậy tin chấp tà kiến vào những thế lực bên ngoài, đểrồi bị chúng cuốn hút luôn, không làm chủ được mình.Do đó, Thiền sư Mãn Giác mới cảnh giác chúng của ông vànhững người đi sau như chúng ta, qua pháp phủ định nhữngxác định mà người đời đã coi chúng như là một thứ chânlý, qua hai câu song thất của bài kệ:

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai.

Quapháp phủ định này, trước hết đứng về mặt biểu hiệnthì sự hiện hữu của một đóa mai, không bị lệ thuộcvào việc xuân đến hay là xuân đi như chúng thường đượcchấp nhận một cách tự nhiên, được coi như là một thứchân lý xưa nay theo kinh nghiệm: "Xuân đi trăm hoa rụng, xuânđến trăm hoa cười" theo tiến trình thời gian, phân bố điềutrong một năm qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Như vậy có nghĩalà chúng sẽ hiện hữu vào bất cứ lúc nào, khi những điềukiện duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh, đủ chophép để hiện khởi thì chúng hiện hữu. Đó là chỉ nóiđến một sự hiện hữu chưa được xác định qua phủ định,nhưng ở đây chúng ta được thiền sư tự xác định thờigian và nơi chốn hiện hữu của chúng qua câu hai: "Ngoài sânđêm trước một đóa mai."

Vậyở đây, đêm trước là đêm nào? và chúng thuộc vào mùanào trong năm? điều này cũng dễ thôi nếu chúng ta biết liênhệ đến thời gian cáo bệnh để dạy chúng của người.Theo tiểu sử thì ngài nói ra bài kệ này cùng ngày trướckhi ngài thị tịch, như vậy ngày ngài qua đời là ngày 30tháng 11 năm Hội phong thứ 5 (1096). Qua đây chúng ta đã xácđịnh được ngày tháng năm và nơi chốn đóa mai hiện hữu.Chính sự hiện hữu của đóa mai này đã nói lên được:thứ nhất sự phủ định của ngài đã đánh đổ đi đượcnhững lệ thuộc ước lệ thời gian từ ngàn xưa để lại,mà mọi người trong chúng ta đã từng chấp nhận như là mộtchân lý. thứ hai sự hiện hữu của đóa mai có thể là bấtcứ lúc nào, bất cứ nơi nào miễn có đầy đủ mọi duyêncùng hoàn cảnh môi trường chung quanh cho phép thì chúng sẽhiện hữu. Mai nở vào mùa đông có gì không phải? Hiện tạikhoa học dư sức để tạo môi trưòng về việc này, ngay đếnviệc tác tạo ra thai nhi trong ống nghiệm họ còn làm được,qua việc trích ly tinh trùng và noãn sào của người đàn ôngvà đàn bà phối hợp với nhau, cùng tạo môi trường dinhdưỡng đầy đủ v.v... thì thai nhi hiện hữu và lớn lên.Cũng vì việc tác tạo thai nhi trong ống nghiệm của các nhàkhoa học, mà họ đã từng bị một số tôn giáo phản đói. Nhưng đó là việc của tôn giáo, còn khoa học vẫn là khoa học, khoa học không phải vì thế mà chúng mất đi giá trịchân lý của chúng. Chân lý vẫn là chân lý khi khao học làbiểu tượng cho những thành tựu chân lý của chính nó, trongkhi tư tưởng phản khoa học chúng là vật cản đường đểđi đến chân lý, những thứ nọc độc cặn bã này rồi cũngsẽ bị thời gian đào thải mà thôi. Qua đây đủ nói lêntính ưu việt của thuyết nhân duyên sanh khởi của đạo Phật,mà qua đó khoa học càng ngày càng nhận thấy, những kếtquả thực nghiệm của họ khám phá ra trong hiện tại, luônluôn tương ứng và khế hợp với những lời dạy của đứcPhật cách đây hơn hai ngàn năm.

Đứngvề mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm traocho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chếtcủa đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bảnlai diện mục" của các loài hữu tình nói riêng, và vạn vậtvô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tại và biến dịchtrong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyênđủ để hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thườngtác động để hình thành luật tắc "vô thường tức thịthường." Ở đây, trong tất cả những duyên đủ để hìnhthành sự hiện hữu của một vật, thì các loài hữu tìnhchỉ khác với loài vô tình về nghiệp lực qua năm uẩn (Vềvật chất (sắc): đất, nước, gió, lửa, không. Về tinh thần(tâm): thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi.

Nhưchúng ta biết tiến trình sinh hóa của vũ trụ vạn vật chúngluôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, do đóviệc đóng khung vào những hiện tượng bên ngoài theo kinhnghiệm, để phân chia cắt xén thời gian và, áp đặt lênnó một nhãn hiệu nào đó theo đạo Phật điều đó là mộtviệc làm sai lầm. Cũng đứng trên quan điểm này thiền sưMãn Giác dùng "đóa mai" làm ẩn dụ cho "Bản lai diện mục"của mỗi chúng ta. Bản lai diện mục này không những chỉhiện hữu trong kiếp này để rồi biến mất sau khi chếtđâu, mà chúng hiện hữu bất cứ lúc nào và bất cứ nơiđâu trong ba cõi sáu đường luân hồi này nếu đủ duyên,việc đủ duyên ở đây chúng tôi muốn nói đến y báo vàchánh báo của nghiệp. Như vậy vấn đề sống-chết hay sinh-diệtcủa các pháp ở đây chúng tôi chỉ mới nói đến Phân đoạnsanh-tử chứ chưa đề cập đến vấn đề Biến dịch sanh-tử.Cũng như đóa mai chúng sẽ nở ra bất cứ mùa nào trong nămcho dù là mùa đông nếu hội đủ các điều kiện của mùaxuân thì chúng hiện hữu.

Quapháp ẩn dụ này tuy chúng ta đã được thiền sư Mãn Giáchướng dẫn cho chúng ta một cách nhìn đúng về sự hiệnhữu và biến dịch của của cái Bản lai diện mục chínhmỗi người qua pháp phủ định, và chúng sẽ hiện hữu -biến dịch vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trongba cõi sáu đường. Nhưng ở đây có một điều quan trọnglà chúng ta chưa thấy được bộ mặt thật của cái Bảnlai diện mục của chúng ta như thế nào? Điều này là mộtvấn đề cần thiết cấp bách dành cho việc nỗ lực thựchành.của mỗi chúng ta, mà thiền sư Mãn Giác cần nơi chúngta tự giải quyết nghi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2020(Xem: 6284)
Cơ quan Chính quyền Trung ương Tây Tạng lưu vong (CTA) cho biết, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen, vị học giả Phật giáo Tây Tạng đã viên tịch, xả báo thân tại tu viện Gaden Jangtse, miền nam Ấn Độ, theo truyền thông cho hay, Ngài đã “Chết lâm sàng” đến nay gần 1 tháng (26 ngày), nhưng thi thể vẫn không phân hủy. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo và Văn hóa thuộc (CTA) cho thấy rằng, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen đã đi vào trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là thukdam (Tib: ཐུགས་ དམ་).
19/12/2020(Xem: 5485)
Tòa nhà Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan, thủ đô Thimphu, Bhutan. Hôm thứ Năm, ngày 10 tháng 12 vừa qua, cả hai Nghị viện Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan đã thông qua dự luật hợp pháp hóa các mối quan hệ đồng tính, biến Vương quốc Himalaya nhỏ bé trở thành quốc gia châu Á mới nhất thực hiện các bước, nhằm nới lỏng các hạn chế đối với các mối quan hệ đồng giới. Trước đó, mục 213 và 214 của bộ Luật Hình sự Vương quốc Phật giáo này quy định xu hướng “Tình dục trái với tự nhiên”, được hiểu rộng rãi là đồng tính luyến ái – không được phép.
19/12/2020(Xem: 5250)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 5214)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6269)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6297)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
11/12/2020(Xem: 5816)
Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.
10/12/2020(Xem: 6472)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5569)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 15614)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]