Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ẩn Dụ Một Đóa Mai

20/09/201016:19(Xem: 7218)
Ẩn Dụ Một Đóa Mai

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai.

Sựhiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai đã đánhlay tâm thức của người đọc một cách bất ngờ, tạo ramột mối nghi tình cho hành giả, trong hai câu song thất kếtthúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho nhữngngười đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài, chúngvẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực đểnói về sự hiện hữu của chúng.

Vì ở đây, chúng ta mỗingười phàm tình, đang sống với cảm giác cảm tính chứkhông phải trí giác của trực giác lý tính, do đó mỗi ngườicó mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm tính tình cảm thiên kiếncủa mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ thuộc vàochủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện.Ở đây, mọi người đều có quyền thể hiện, nhưng sựthể hiện đó, chúng được đánh giá như thế nào còn tuỳthuộc vào tính phổ quát được mọi người chấp nhận vàđồng tình hay không, đó là điều đáng nói; còn chuyện muốnvượt qua khỏi mức độ cho phép, thì đó là một chuyệnkhác, hãy để dành cho đức Phật Di Lặc (hay những vị đạtĐạo) sau này ra đời giải quyết nghi!

Ẩndụ của một đóa mai theo ngôn ngữ luận lý tương đối,chúng ta có thể có khả năng tháo gỡ bóc vỏ để chúng hiệnhữu như chính chúng, trong việc phân tích bằng vào ngôn ngữmà mọi người có thể chấp nhận được thì trước hết,chúng ta phải biết qua xuất xứ của bài kệ này, để từđó đánh giá đúng hơn về tư tưởng ẩn dụ này qua bàikệ, sau nữa là người viết và người đọc phải tham dựvào, tiến trình động não phân tích qua pháp phủ định nhữngnguyên tắc, tưởng chừng như là một chân lý khó phá vỡvượt qua, do kinh nghiệm thói quen tập quán mang lại trên mặthiện tượng. Trước khi thị tịch ngài có để lại cho chúngta một bài kệ nhân khi ngài cáo bệnh dạy chúng:

"Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuânđến trăm hoa cười.

Việcđời qua trước mắt,

Giàđến trên đầu rồí!

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai."

(ThiềnUyển tập anh).

Quaxuất xứ bài kệ dạy chúng trước khi người thị tịch vànội dung của chúng, đã kết hợp đủ để chúng ta có mộtcái nhìn tổng quát về mặt hiện tượng (tướng-dụng) vàẩn dụ (thể).

Đứngvề mặt hiện tướng là một vị thiền sư, ngài nói lêncái chức năng của một người dẫn đường trước khi mìnhqua đời, để cảnh tỉnh những người còn lại sau này quaviệc sống-chết. Cho dù bằng vào những kinh nghiệm sống,những thói quen tập quán, mà con người đã rút ra đượcnhững chân lý mang tính phổ quát được mọi người chấpnhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ chân lý củatương đối thôi. Vì sao? Vì việc đến đi của mùa xuânchúng tùy thuộc vào vô thường, nếu không có vô thườngthì sẽ không có đến-đi, và không có đến-đi thì sẽ khôngcó mùa xuân. Do đó, việc: "Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đếntrăm hoa cười." chỉ là hiện tượng biến dịch (vô thường)THƯỜNG chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việcsống chết của con người mà lý vô thường luôn được hiệnhữu một cách thường xuyên, để thể hiện luật tắc Duyênkhởi trong hiện tướng (trongThành-trụ-hoại-không) của cácpháp. Chỉ vì chúng ta không nhìn ra được cái lý ẩn của:"Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu rồi," nêntừ sự vô thường bất toàn của các pháp, con người đâmra ham sống sợ chết, sống vui chết buồn, và cũng từ đómọi sự sợ hãi được hình thành, ám ảnh con người, đểrồi các thứ bệnh tà kiến phân biệt chấp trước đua nhauxuất hiện trong cái lòng tin mù quán của mọi người. Đâycũng là điều mà chính đức Phật đã dạy trong kinh Kalama:

Đừngvội tin tưởng vào bất cứ điều gì mà chúng ta thườngnghe nhắc đi nhắc lại luôn luôn. Đừng vội tin tưởng vàođiều gì mà điều đó được coi như là một tập tục từngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng vào những sáo ngữ màngười ta thường đề cập đến luôn. Đừng tin tưởng bấtcứ điều gì dù đó là bút tích của thánh nhơn. Đừng tintưởng vào điều gì dù là thói quen từ lâu, khiến ta nhậnlà điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởngtượng ra mà lại nghĩ rằng do một vị tối linh đã khai thịcho ta. Đừng tin tưởng vào bất cứ điều gì mà điều đóchỉ dựa vào uy tín của các thầy dạy cho các người. Nhưngchỉ tin tưởng vào cái gì mà chính các người đã từng trải,kinh nghiệm và nhận cho là đúng, có lợi cho mình và ngườikhác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa chocon người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉnam cho mình.

Chínhvì sự sợ hãi trước cuộc sống-chết của chính mình, quanhững biến động đổi thay của vô thường luôn luôn hiệnhữu bên cạnh, nên lòng mê tín dị đoan của chúng ta nổidậy tin chấp tà kiến vào những thế lực bên ngoài, đểrồi bị chúng cuốn hút luôn, không làm chủ được mình.Do đó, Thiền sư Mãn Giác mới cảnh giác chúng của ông vànhững người đi sau như chúng ta, qua pháp phủ định nhữngxác định mà người đời đã coi chúng như là một thứ chânlý, qua hai câu song thất của bài kệ:

Chớbảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoàisân đêm trước một đóa mai.

Quapháp phủ định này, trước hết đứng về mặt biểu hiệnthì sự hiện hữu của một đóa mai, không bị lệ thuộcvào việc xuân đến hay là xuân đi như chúng thường đượcchấp nhận một cách tự nhiên, được coi như là một thứchân lý xưa nay theo kinh nghiệm: "Xuân đi trăm hoa rụng, xuânđến trăm hoa cười" theo tiến trình thời gian, phân bố điềutrong một năm qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Như vậy có nghĩalà chúng sẽ hiện hữu vào bất cứ lúc nào, khi những điềukiện duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh, đủ chophép để hiện khởi thì chúng hiện hữu. Đó là chỉ nóiđến một sự hiện hữu chưa được xác định qua phủ định,nhưng ở đây chúng ta được thiền sư tự xác định thờigian và nơi chốn hiện hữu của chúng qua câu hai: "Ngoài sânđêm trước một đóa mai."

Vậyở đây, đêm trước là đêm nào? và chúng thuộc vào mùanào trong năm? điều này cũng dễ thôi nếu chúng ta biết liênhệ đến thời gian cáo bệnh để dạy chúng của người.Theo tiểu sử thì ngài nói ra bài kệ này cùng ngày trướckhi ngài thị tịch, như vậy ngày ngài qua đời là ngày 30tháng 11 năm Hội phong thứ 5 (1096). Qua đây chúng ta đã xácđịnh được ngày tháng năm và nơi chốn đóa mai hiện hữu.Chính sự hiện hữu của đóa mai này đã nói lên được:thứ nhất sự phủ định của ngài đã đánh đổ đi đượcnhững lệ thuộc ước lệ thời gian từ ngàn xưa để lại,mà mọi người trong chúng ta đã từng chấp nhận như là mộtchân lý. thứ hai sự hiện hữu của đóa mai có thể là bấtcứ lúc nào, bất cứ nơi nào miễn có đầy đủ mọi duyêncùng hoàn cảnh môi trường chung quanh cho phép thì chúng sẽhiện hữu. Mai nở vào mùa đông có gì không phải? Hiện tạikhoa học dư sức để tạo môi trưòng về việc này, ngay đếnviệc tác tạo ra thai nhi trong ống nghiệm họ còn làm được,qua việc trích ly tinh trùng và noãn sào của người đàn ôngvà đàn bà phối hợp với nhau, cùng tạo môi trường dinhdưỡng đầy đủ v.v... thì thai nhi hiện hữu và lớn lên.Cũng vì việc tác tạo thai nhi trong ống nghiệm của các nhàkhoa học, mà họ đã từng bị một số tôn giáo phản đói. Nhưng đó là việc của tôn giáo, còn khoa học vẫn là khoa học, khoa học không phải vì thế mà chúng mất đi giá trịchân lý của chúng. Chân lý vẫn là chân lý khi khao học làbiểu tượng cho những thành tựu chân lý của chính nó, trongkhi tư tưởng phản khoa học chúng là vật cản đường đểđi đến chân lý, những thứ nọc độc cặn bã này rồi cũngsẽ bị thời gian đào thải mà thôi. Qua đây đủ nói lêntính ưu việt của thuyết nhân duyên sanh khởi của đạo Phật,mà qua đó khoa học càng ngày càng nhận thấy, những kếtquả thực nghiệm của họ khám phá ra trong hiện tại, luônluôn tương ứng và khế hợp với những lời dạy của đứcPhật cách đây hơn hai ngàn năm.

Đứngvề mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm traocho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chếtcủa đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bảnlai diện mục" của các loài hữu tình nói riêng, và vạn vậtvô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tại và biến dịchtrong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyênđủ để hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thườngtác động để hình thành luật tắc "vô thường tức thịthường." Ở đây, trong tất cả những duyên đủ để hìnhthành sự hiện hữu của một vật, thì các loài hữu tìnhchỉ khác với loài vô tình về nghiệp lực qua năm uẩn (Vềvật chất (sắc): đất, nước, gió, lửa, không. Về tinh thần(tâm): thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi.

Nhưchúng ta biết tiến trình sinh hóa của vũ trụ vạn vật chúngluôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, do đóviệc đóng khung vào những hiện tượng bên ngoài theo kinhnghiệm, để phân chia cắt xén thời gian và, áp đặt lênnó một nhãn hiệu nào đó theo đạo Phật điều đó là mộtviệc làm sai lầm. Cũng đứng trên quan điểm này thiền sưMãn Giác dùng "đóa mai" làm ẩn dụ cho "Bản lai diện mục"của mỗi chúng ta. Bản lai diện mục này không những chỉhiện hữu trong kiếp này để rồi biến mất sau khi chếtđâu, mà chúng hiện hữu bất cứ lúc nào và bất cứ nơiđâu trong ba cõi sáu đường luân hồi này nếu đủ duyên,việc đủ duyên ở đây chúng tôi muốn nói đến y báo vàchánh báo của nghiệp. Như vậy vấn đề sống-chết hay sinh-diệtcủa các pháp ở đây chúng tôi chỉ mới nói đến Phân đoạnsanh-tử chứ chưa đề cập đến vấn đề Biến dịch sanh-tử.Cũng như đóa mai chúng sẽ nở ra bất cứ mùa nào trong nămcho dù là mùa đông nếu hội đủ các điều kiện của mùaxuân thì chúng hiện hữu.

Quapháp ẩn dụ này tuy chúng ta đã được thiền sư Mãn Giáchướng dẫn cho chúng ta một cách nhìn đúng về sự hiệnhữu và biến dịch của của cái Bản lai diện mục chínhmỗi người qua pháp phủ định, và chúng sẽ hiện hữu -biến dịch vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trongba cõi sáu đường. Nhưng ở đây có một điều quan trọnglà chúng ta chưa thấy được bộ mặt thật của cái Bảnlai diện mục của chúng ta như thế nào? Điều này là mộtvấn đề cần thiết cấp bách dành cho việc nỗ lực thựchành.của mỗi chúng ta, mà thiền sư Mãn Giác cần nơi chúngta tự giải quyết nghi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/11/2017(Xem: 7772)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11536)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10163)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10476)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 9949)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29471)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
23/10/2017(Xem: 102129)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 8673)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 7929)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
15/10/2017(Xem: 11572)
Giới đàn là một trong những sinh hoạt đặc thù của Tăng-già, được quy định hết sức chặt chẽ trong Luật tạng. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc thực hiện giới đàn chưa được quan tâm một cách nghiêm túc cần thiết. Sau đây là một trong những hiện tượng như thế. Từ lá thư hoài nghi của một tân giới tử Tỳ-kheo-ni… Vào một buổi chiều tháng 12 gần cuối nămdương lịch, người viết tới thăm Hòa thượng Luật sư Thích Minh Thông tại Giới đàn viện Huệ Nghiêm. Vì là chỗ Thầy trò, cũng là để học hỏi và trao đổi giới luật với ngài nên chúng tôi thường xuyênlui tới mỗi khi có dịp. Lần này vào thăm ngài, bàn trà chưa kịp rót ra như mọi khi thì Hòa thượng đã vội đến bàn làm việc, lục tìm trong chồng thư từ ra một bức thư chuyển phát nhanh. Hòa thượng trở lại bàn trà và mở lá thư ra đọc cho người viết nghe nội dung bức thư ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]