Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

09/01/201213:27(Xem: 13747)
Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo
lotus_53
HẠNH PHÚC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

Thích Trí Giải

Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau.

Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú.

Con người biết tư duy, có tổ chức thành gia đình, làngxóm, và hình thành cộng đồng xã hội. Con người hành nhiều nghề khác nhau để duytrì cuộc sống.

Ngoài vấn đề ăn mặc, con người sản sinh ra nhiều nétvăn hóa như nghệ thuật, thẩm mỹ, thơ ca, khoa học…Mục đích của con người nhằmmưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Ở đây người viết xin trình bàythế nào là chân hạnh phúc con người cần nên tìm

I. Nhómhạnh phúc thứ nhất là con người biết an phận:

Quan niệm của họ là xây dựng một mái ấm gia đình nhonhỏ, vợ chồng con cái sống an vui, hòa thuận, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Họkhông ước vọng cao sang tiện nghi vật chất; cơm đủ ăn, áo mặc đủ ấm là hạnhphúc, phần đông họ sống ở nông thôn, làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi vàcác nghề thủ công, có một số ở thành phố là những giáo viên, công chức. Hạnhphúc của họ quả thật đơn sơ nhưng không kém phần nên thơ lý tưởng:

“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng hòa, vợ thuận, gật đầu khen ngon”
(Ca dao Việt Nam)

II. Nhómhạnh phúc thứ hai ước vọng cao hơn, phù hợp với xã hội phát triển ngày nay:

Phần lớn họ sống ở thành thị, có chung ước vọng họchành, có bằng cấp, có địa vị, danh vọng, tiền của, nhà cửa cao sang, huy hoàngvà lộng lẫy, vợ đẹp con xinh, đầy đủ tiện nghi, theo cách nghĩ của họ sống màthiếu tiện nghi là không có hạnh phúc. Bởi vì họ là người tạo ra của cải vậtchất nên họ có quyền thụ hưởng, cho rằng đó là hạnh phúc cuộc đời.

III. Nhómhạnh phúc thứ ba thanh cao hơn, đó là những vị ẩn sĩ sống nơi non cao, núi thẳm.

Họ muốn ra khỏi chốn hồng trần đầy đau khổ này. Hay lànhững người Phật tử hiểu được chân lý của cuộc đời, sống cuộc sống thiểu dụctri túc, vui với đạo, vui với nội tâm, không màng đến danh lợi, họ tìm cuộcsống hạnh phúc thanh cao hơn, tao nhã hơn. Hằng ngày làm bạn với cỏ cây, sôngnúi, vui bên chén trà, nghe tiếng chim hót, hay là tụng Kinh, ngồi thiền… cóphải hạnh phúc của họ được mong cầu lên cảnh giới chư thiên hưởng thú vui dụclạc trên ấy hay không?

“Cuộc thế công danh mơ tưởng hão
Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng”
( Lê Thánh Tông)

Trên đây chỉ phân tích theo từng nhóm. Người viết muốnnêu lên hạnh phúc cụ thể hơn, tùy theo độ tuổi, tùy theo hoàn cảnh sống, tùytheo địa vị xã hội. Hạnh phúc của em bé là được vuốt ve, âu yếm của người mẹ,được bú mớm, được cưng chiều, hạnh phúc của nó là ở gần bên cha me, gần bênngười thân yêu.

Có người cho rằng hạnh phúc là những điều mình mongmuốn, có người thấy thân mình đẹp, đoan trang là hạnh phúc, có người cho rằngmạnh khỏe không bệnh tật là hạnh phúc…những điều hạnh phúc nêu trên thật sựkhông bền chắc.

Nếu đem trí tuệ của đạo Phật mà quán chiếu thì thấynhững hạnh phúc ấy mong manh, dễ tan vỡ như giọt sương lúc ánh nắng ban mai, vìbản chất cuộc đời là vô thường, duyên sinh vô ngã,

“Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp
( Pháp cú 170 )

Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã “Thị Đệ Tử ”bằng bài kệ

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Những hạnh phúc này theo lăng kính của Đạo Phật thìchúng chính là mầm mống của sự khổ đau vì chất chứa nhiều sự lo âu, phiền não,sầu khổ. Ví dụ: Có người nói rằng, gần người mình yêu là hạnh phúc. Bạn có chắcchắn rằng người yêu ấy có chung thủy với bạn suốt đời không? Người yêu ấy khôngcó bị sanh, lão, bịnh, tử không?

Nếu như tất cả đều theo ý muốn của bạn thì quan niệmhạnh phúc của bạn là đúng. Nhưng có bao giờ được như vậy không? Có những đôitình nhân nghĩ rằng được sống gần bên nhau là hạnh phúc. Nhưng cuộc sống baogiờ cũng có hợp ắt phải có chia lìa, yêu nhau xa nhau sinh ra sầu khổ (ái biệtly khổ). Trong cái hợp đã có mầm móng của sự chia lìa.

Điều họ nghĩ: “đaukhổ vì nhau, buồn nhớ vì nhau là hạnh phúc”hạnh phúc của họ là thứ hạnh phúc chờđợi héo mòn, và hạnh phúc của sự âu lo. Thật sự, hạnh phúc của ái tình rất mongmanh, chóng tàn, là thứ tạm bợ, giả tạm mà có trong chốc lát, chứ không phảihạnh phúc miên viễn.

Vì sao nói hạnh phúc của thế gian luôn luôn có sự ưunão, buồn khổ? Bởi vì, hạnh phúc ấy xuất phát từ lòng tham ái, chấp thủ. Ở đâucó mặt của tham ái, ở nơi đó có mặt của đau thương và thù hận.

Nhất là trong vấn đề tình yêu đôi lứa thường hay thờthốt với nhau, tiếng nói ấy cũng chính từ cái tâm chấp ngã mà có đôi khi đểđánh lừa đối tượng, không phải thứ tình yêu chân thật.

Một người có tình yêu chân thật thì luôn có sự hy sinhvà trao tặng cho người mình yêu thương, không mong cầu đón nhận. Tình yêu còncó bản ngã, còn có chấp thủ thì sao có sự hạnh phúc chân thật và bền vững được.Nên chúng ta hãy xem quan niệm hạnh phúc trong phật giáo như thế nào?

IV. Hạnhphúc theo quan điểm của Phật giáo

Hạnh phúc trong Đạo Phật luôn luôn đòi hỏi sự hành trìthâm hậu ở mỗi con người. Con người luôn ý thức và làm chủ ngũ dục (tài, sắc,danh, thực, thùy) và những vật chất hữu vi chỉ là phương tiện sống. Mục đíchchính là con người phải biết quay về đời sống tinh thần tu tập diệt trừ mọiphiền não để tâm hồn thanh tịnh, an lạc ngay trong kiếp sống hiện tại.

Đạo Phật không quan niệm vàng bạc, ngọc ngà châu báulà hạnh phúc, Hạnh phúc càng không phải đặt chân vào lâu đài tình ái. Hạnh phúckhông phải hình thành từ chất liệu ngũ dục thế gian…không phải chạy theo tiếnggọi của mỹ nhân để được nghe lời hay ngọt ngào, âu yếm cho là hạnh phúc, nhữngthứ này chỉ làm cho tâm con người quay cuồng trong vòng xoay sinh tử, khôngbiết bao giờ ngưng nghỉ, và tạo thêm khổ đau.

Hạnh phúc là những ai biết quay về với đời sống tâmlinh cao cả, đó là phần tinh ba cao quý nhất của con người, sống quay về vớichính mình và giây phút hiện tại. Nếu chúng ta rời khỏi mình mà chạy tìm cầu ởngoài thì làm mất đi cái gì quý giá nhất, lạc vào tà kiến, ấy chính là quên đicái sáng suốt vốn có của mình (Phật Tính). Từ trong bóng đêm vô minh mù mịttrải qua hàng vạn kiếp, tâm hồn ta trôi giạt trong biển đời mênh mông, như contàu lênh đênh bị sóng gió dập dồi ở ngoài biển khơi không bến bờ nương tựa. Đóchính là biển ái dục và bão tố vô minh, vùi dập chúng ta quay vòng trong sinhtử vô tận.

Chúng ta học Phật Pháp một cách sâu xa và chắc chắntrong tay có được một ngọn đuốc sáng trên con đường đi tìm chân hạnh phúc. Giátrị nhiệm màu của đạo Phật là “tri”“hành”chứ không phải dùng để nói suông, càngthực hành sâu chừng nào mới thấy giá trị Phật pháp cao siêu chừng đó.

Đức phật tuyên bố: “Giảithoát an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay trong tâm của chúng ta” hay là “Ta đến đây không phải cứu độ cácngươi, Ta đến đây cốt là để chỉ đường đi sáng suốt cho các ngươi. Các ngươi hãynoi theo đó mà tiến hóa giác ngộ để tự độ lấy mình.”“Ngươi là ngọn đuốc và là nơi nươngnáu cho chính ngươi. Ngươi đừng tự phó thác vào chốn dung thân nào khác”

Hạnh phúc mà Đức Phật muốn dạy chúng ta đạt đến làcảnh giới Niết bàn tại tâm. Niết Bàn là Bản Thể chân thực của ta, củaquần sinh và vũ trụ.

Niết Bàn là hạnh phúc.

Niết Bàn ở sẵn trong tâm khảm con người.

Niết bàn là Chân Thường, Hằng Cửu.

Niết Bàn là một trạng thái tĩnh lặng, bất biến.

Niết bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này.

Như vậy Niết Bàn là trạng thái mà ta có thể tự tạo chota, ban bố cho ta, chứ không do một vị Thần Phật ngoại tại nào. Tại sao vậy?Thưa chính là vì ta đã nhập thể với Bản Thể vũ trụ, nguồn sinh xuất ra vũ trụ,và chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng.

Đến đây tôi sực nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Các ngươi hãynỗ lực lên. Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ thế choai được. Sự trói buộc củama vương sẽ tùy sức thiền định của ngươi mà được cởi mở.” (Kinh Pháp Cú276)

Mới hay công trình tu trì, giải thoát của con ngườicũng đã chịu một định luật thiên nhiên chi phối. Đó là: “Linh tại Ngã, bấtlinh tại Ngã” (Hay tại ta, dở cũng tại ta).

Nếu Niết Bàn là hạnh phúc, là bất biến, là trạng tháicó thể thực hiện ngay ở đời này, thì dĩ nhiên là nếu có được hạnh phúc bây giờ,thì hạnh phúc ấy cũng không thua kém hạnh phúc hưởng được sau khi nhắm mắt tắthơi.

Nhận định này hết sức quan trọng. Bởi vì ngay từ trongcuộc sống hiện tiền của chúng ta có thể đạt được một trạng thái cao siêu nhấtmà trời đất có thể dành để cho chúng ta. Nếu cuộc sống hiện tại chúng ta chưađạt được an lạc nội tâm thì đừng có mơ tưởng viễn vong đến thế giới cao xa

Vì vậy con đường giải thoát là tìm Chân Tâm tự nơimình:

“Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngu si.
Hướng nội mà tùy xứ tiện nghi,
Tất cả đều là chân thật.” [1]

Lục Tổ Huệ Năng nói: trong Pháp Bảo Đàn Kinh: “Tựmình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấymình mới được” [2]

Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:

Con đường hướng nội tiến cho sâu,
Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu.
Tâm khảm bao la không bờ bến,
Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.

Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìmngay trong người mình, trong lòng mình.

Phật bảo A Nan: ChânTính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính,vậy ngươi đã lầm chưa? [3]

Hạnh phúc theo Đạo Phật rất đơn giản, bất cứ người nàocũng đạt được hạnh phúc đó, miễn sao đi đúng con đường đức Thế Tôn đã vạch ra.Trong kinh Đức Thế Tôn dạy về sự chấm dứt khổ đau như sau: “Này các Tỳ kheo, trong tất cảpháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là cao cảnhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấpthủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn.[4]

Nếu ta theo con đường Đức Phật đã dạy thực hành mộtcách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu tađạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể thực chứngNiết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì những danh từ lớn lối bíhiểm. Cho nên hạnh phúc trong Phật giáo cũng vậy, người nào thật sự tu tập đoạntrừ tham ái, chấp thủ chính người ấy mới cảm nhận được hạnh phúc.

Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ“tham ái, chấptrước”có nghĩa là khôngvướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc,ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tựtại, an vui, cho dù chung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫnkhông vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:

“Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau
Giải thoát là ung dung trong ràng buộc”

Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũngkhông cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ởđây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng conngười không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạmkia.

Chuông lòng thánh thoát từ tâm
Pháp âm thơm ngát, khói trầm quyện bay
Lòng an, tâm tịnh mỗi ngày
Dứt phiền não đoạn, tỏ bày tánh chơn ... (Hoa Mai)

Thích Trí Giải

Chú thích:

[1] Lâmtế lục thị chúng, ĐĐ ThiênÂn, Triết học Zen, tr.103

[2] PhápBảo Đàn Kinh(Đoàn trung Còndịch), Sám Hối Phẩm, tr. 61

[3] 云 何 自 疑 汝 之 真 性, 性 汝 不 真, 取 我 求 實. Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ bất chân,thủ Ngã cầu thực. – Thủ LăngNghiêm kinh(V.N. P.T. hội xuất bản), q. II, tr. 16-17.- ThủLăng Nghiêm, -Linh Sơn, Phật Học, tr. 113-114

[4] Aṅguttara-Nikāya, II.p.34

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 5388)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5374)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4523)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5274)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5552)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 6895)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5110)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6204)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 6999)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
28/09/2020(Xem: 6710)
Dharamshala: Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ Tây Tạng, Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng lưu vong đã ra mắt cuốn sách do Hoà thượng Acharya Yeshi Phuntsok, Phó Chủ tịch Quốc hội Lưu vong Tây Tạng biên soạn với chủ đề “So sánh Hiến pháp của các Quốc gia Dân chủ Khác nhau” (Comparative Constitutions of Various Democratic Nations). Tác phẩm tập trung vào việc so sánh Hiếp pháp của các quốc gia dân chủ khách nhau trên thế giới, và giải thích các loại Hiếp pháp Dân chủ khác nhau một cách đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]