Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

09/01/201213:27(Xem: 14301)
Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo
lotus_53
HẠNH PHÚC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

Thích Trí Giải

Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau.

Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú.

Con người biết tư duy, có tổ chức thành gia đình, làngxóm, và hình thành cộng đồng xã hội. Con người hành nhiều nghề khác nhau để duytrì cuộc sống.

Ngoài vấn đề ăn mặc, con người sản sinh ra nhiều nétvăn hóa như nghệ thuật, thẩm mỹ, thơ ca, khoa học…Mục đích của con người nhằmmưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Ở đây người viết xin trình bàythế nào là chân hạnh phúc con người cần nên tìm

I. Nhómhạnh phúc thứ nhất là con người biết an phận:

Quan niệm của họ là xây dựng một mái ấm gia đình nhonhỏ, vợ chồng con cái sống an vui, hòa thuận, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Họkhông ước vọng cao sang tiện nghi vật chất; cơm đủ ăn, áo mặc đủ ấm là hạnhphúc, phần đông họ sống ở nông thôn, làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi vàcác nghề thủ công, có một số ở thành phố là những giáo viên, công chức. Hạnhphúc của họ quả thật đơn sơ nhưng không kém phần nên thơ lý tưởng:

“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng hòa, vợ thuận, gật đầu khen ngon”
(Ca dao Việt Nam)

II. Nhómhạnh phúc thứ hai ước vọng cao hơn, phù hợp với xã hội phát triển ngày nay:

Phần lớn họ sống ở thành thị, có chung ước vọng họchành, có bằng cấp, có địa vị, danh vọng, tiền của, nhà cửa cao sang, huy hoàngvà lộng lẫy, vợ đẹp con xinh, đầy đủ tiện nghi, theo cách nghĩ của họ sống màthiếu tiện nghi là không có hạnh phúc. Bởi vì họ là người tạo ra của cải vậtchất nên họ có quyền thụ hưởng, cho rằng đó là hạnh phúc cuộc đời.

III. Nhómhạnh phúc thứ ba thanh cao hơn, đó là những vị ẩn sĩ sống nơi non cao, núi thẳm.

Họ muốn ra khỏi chốn hồng trần đầy đau khổ này. Hay lànhững người Phật tử hiểu được chân lý của cuộc đời, sống cuộc sống thiểu dụctri túc, vui với đạo, vui với nội tâm, không màng đến danh lợi, họ tìm cuộcsống hạnh phúc thanh cao hơn, tao nhã hơn. Hằng ngày làm bạn với cỏ cây, sôngnúi, vui bên chén trà, nghe tiếng chim hót, hay là tụng Kinh, ngồi thiền… cóphải hạnh phúc của họ được mong cầu lên cảnh giới chư thiên hưởng thú vui dụclạc trên ấy hay không?

“Cuộc thế công danh mơ tưởng hão
Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng”
( Lê Thánh Tông)

Trên đây chỉ phân tích theo từng nhóm. Người viết muốnnêu lên hạnh phúc cụ thể hơn, tùy theo độ tuổi, tùy theo hoàn cảnh sống, tùytheo địa vị xã hội. Hạnh phúc của em bé là được vuốt ve, âu yếm của người mẹ,được bú mớm, được cưng chiều, hạnh phúc của nó là ở gần bên cha me, gần bênngười thân yêu.

Có người cho rằng hạnh phúc là những điều mình mongmuốn, có người thấy thân mình đẹp, đoan trang là hạnh phúc, có người cho rằngmạnh khỏe không bệnh tật là hạnh phúc…những điều hạnh phúc nêu trên thật sựkhông bền chắc.

Nếu đem trí tuệ của đạo Phật mà quán chiếu thì thấynhững hạnh phúc ấy mong manh, dễ tan vỡ như giọt sương lúc ánh nắng ban mai, vìbản chất cuộc đời là vô thường, duyên sinh vô ngã,

“Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp
( Pháp cú 170 )

Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã “Thị Đệ Tử ”bằng bài kệ

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Những hạnh phúc này theo lăng kính của Đạo Phật thìchúng chính là mầm mống của sự khổ đau vì chất chứa nhiều sự lo âu, phiền não,sầu khổ. Ví dụ: Có người nói rằng, gần người mình yêu là hạnh phúc. Bạn có chắcchắn rằng người yêu ấy có chung thủy với bạn suốt đời không? Người yêu ấy khôngcó bị sanh, lão, bịnh, tử không?

Nếu như tất cả đều theo ý muốn của bạn thì quan niệmhạnh phúc của bạn là đúng. Nhưng có bao giờ được như vậy không? Có những đôitình nhân nghĩ rằng được sống gần bên nhau là hạnh phúc. Nhưng cuộc sống baogiờ cũng có hợp ắt phải có chia lìa, yêu nhau xa nhau sinh ra sầu khổ (ái biệtly khổ). Trong cái hợp đã có mầm móng của sự chia lìa.

Điều họ nghĩ: “đaukhổ vì nhau, buồn nhớ vì nhau là hạnh phúc”hạnh phúc của họ là thứ hạnh phúc chờđợi héo mòn, và hạnh phúc của sự âu lo. Thật sự, hạnh phúc của ái tình rất mongmanh, chóng tàn, là thứ tạm bợ, giả tạm mà có trong chốc lát, chứ không phảihạnh phúc miên viễn.

Vì sao nói hạnh phúc của thế gian luôn luôn có sự ưunão, buồn khổ? Bởi vì, hạnh phúc ấy xuất phát từ lòng tham ái, chấp thủ. Ở đâucó mặt của tham ái, ở nơi đó có mặt của đau thương và thù hận.

Nhất là trong vấn đề tình yêu đôi lứa thường hay thờthốt với nhau, tiếng nói ấy cũng chính từ cái tâm chấp ngã mà có đôi khi đểđánh lừa đối tượng, không phải thứ tình yêu chân thật.

Một người có tình yêu chân thật thì luôn có sự hy sinhvà trao tặng cho người mình yêu thương, không mong cầu đón nhận. Tình yêu còncó bản ngã, còn có chấp thủ thì sao có sự hạnh phúc chân thật và bền vững được.Nên chúng ta hãy xem quan niệm hạnh phúc trong phật giáo như thế nào?

IV. Hạnhphúc theo quan điểm của Phật giáo

Hạnh phúc trong Đạo Phật luôn luôn đòi hỏi sự hành trìthâm hậu ở mỗi con người. Con người luôn ý thức và làm chủ ngũ dục (tài, sắc,danh, thực, thùy) và những vật chất hữu vi chỉ là phương tiện sống. Mục đíchchính là con người phải biết quay về đời sống tinh thần tu tập diệt trừ mọiphiền não để tâm hồn thanh tịnh, an lạc ngay trong kiếp sống hiện tại.

Đạo Phật không quan niệm vàng bạc, ngọc ngà châu báulà hạnh phúc, Hạnh phúc càng không phải đặt chân vào lâu đài tình ái. Hạnh phúckhông phải hình thành từ chất liệu ngũ dục thế gian…không phải chạy theo tiếnggọi của mỹ nhân để được nghe lời hay ngọt ngào, âu yếm cho là hạnh phúc, nhữngthứ này chỉ làm cho tâm con người quay cuồng trong vòng xoay sinh tử, khôngbiết bao giờ ngưng nghỉ, và tạo thêm khổ đau.

Hạnh phúc là những ai biết quay về với đời sống tâmlinh cao cả, đó là phần tinh ba cao quý nhất của con người, sống quay về vớichính mình và giây phút hiện tại. Nếu chúng ta rời khỏi mình mà chạy tìm cầu ởngoài thì làm mất đi cái gì quý giá nhất, lạc vào tà kiến, ấy chính là quên đicái sáng suốt vốn có của mình (Phật Tính). Từ trong bóng đêm vô minh mù mịttrải qua hàng vạn kiếp, tâm hồn ta trôi giạt trong biển đời mênh mông, như contàu lênh đênh bị sóng gió dập dồi ở ngoài biển khơi không bến bờ nương tựa. Đóchính là biển ái dục và bão tố vô minh, vùi dập chúng ta quay vòng trong sinhtử vô tận.

Chúng ta học Phật Pháp một cách sâu xa và chắc chắntrong tay có được một ngọn đuốc sáng trên con đường đi tìm chân hạnh phúc. Giátrị nhiệm màu của đạo Phật là “tri”“hành”chứ không phải dùng để nói suông, càngthực hành sâu chừng nào mới thấy giá trị Phật pháp cao siêu chừng đó.

Đức phật tuyên bố: “Giảithoát an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay trong tâm của chúng ta” hay là “Ta đến đây không phải cứu độ cácngươi, Ta đến đây cốt là để chỉ đường đi sáng suốt cho các ngươi. Các ngươi hãynoi theo đó mà tiến hóa giác ngộ để tự độ lấy mình.”“Ngươi là ngọn đuốc và là nơi nươngnáu cho chính ngươi. Ngươi đừng tự phó thác vào chốn dung thân nào khác”

Hạnh phúc mà Đức Phật muốn dạy chúng ta đạt đến làcảnh giới Niết bàn tại tâm. Niết Bàn là Bản Thể chân thực của ta, củaquần sinh và vũ trụ.

Niết Bàn là hạnh phúc.

Niết Bàn ở sẵn trong tâm khảm con người.

Niết bàn là Chân Thường, Hằng Cửu.

Niết Bàn là một trạng thái tĩnh lặng, bất biến.

Niết bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này.

Như vậy Niết Bàn là trạng thái mà ta có thể tự tạo chota, ban bố cho ta, chứ không do một vị Thần Phật ngoại tại nào. Tại sao vậy?Thưa chính là vì ta đã nhập thể với Bản Thể vũ trụ, nguồn sinh xuất ra vũ trụ,và chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng.

Đến đây tôi sực nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Các ngươi hãynỗ lực lên. Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ thế choai được. Sự trói buộc củama vương sẽ tùy sức thiền định của ngươi mà được cởi mở.” (Kinh Pháp Cú276)

Mới hay công trình tu trì, giải thoát của con ngườicũng đã chịu một định luật thiên nhiên chi phối. Đó là: “Linh tại Ngã, bấtlinh tại Ngã” (Hay tại ta, dở cũng tại ta).

Nếu Niết Bàn là hạnh phúc, là bất biến, là trạng tháicó thể thực hiện ngay ở đời này, thì dĩ nhiên là nếu có được hạnh phúc bây giờ,thì hạnh phúc ấy cũng không thua kém hạnh phúc hưởng được sau khi nhắm mắt tắthơi.

Nhận định này hết sức quan trọng. Bởi vì ngay từ trongcuộc sống hiện tiền của chúng ta có thể đạt được một trạng thái cao siêu nhấtmà trời đất có thể dành để cho chúng ta. Nếu cuộc sống hiện tại chúng ta chưađạt được an lạc nội tâm thì đừng có mơ tưởng viễn vong đến thế giới cao xa

Vì vậy con đường giải thoát là tìm Chân Tâm tự nơimình:

“Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngu si.
Hướng nội mà tùy xứ tiện nghi,
Tất cả đều là chân thật.” [1]

Lục Tổ Huệ Năng nói: trong Pháp Bảo Đàn Kinh: “Tựmình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấymình mới được” [2]

Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:

Con đường hướng nội tiến cho sâu,
Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu.
Tâm khảm bao la không bờ bến,
Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.

Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìmngay trong người mình, trong lòng mình.

Phật bảo A Nan: ChânTính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính,vậy ngươi đã lầm chưa? [3]

Hạnh phúc theo Đạo Phật rất đơn giản, bất cứ người nàocũng đạt được hạnh phúc đó, miễn sao đi đúng con đường đức Thế Tôn đã vạch ra.Trong kinh Đức Thế Tôn dạy về sự chấm dứt khổ đau như sau: “Này các Tỳ kheo, trong tất cảpháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là cao cảnhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấpthủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn.[4]

Nếu ta theo con đường Đức Phật đã dạy thực hành mộtcách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu tađạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể thực chứngNiết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì những danh từ lớn lối bíhiểm. Cho nên hạnh phúc trong Phật giáo cũng vậy, người nào thật sự tu tập đoạntrừ tham ái, chấp thủ chính người ấy mới cảm nhận được hạnh phúc.

Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ“tham ái, chấptrước”có nghĩa là khôngvướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc,ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tựtại, an vui, cho dù chung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫnkhông vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:

“Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau
Giải thoát là ung dung trong ràng buộc”

Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũngkhông cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ởđây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng conngười không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạmkia.

Chuông lòng thánh thoát từ tâm
Pháp âm thơm ngát, khói trầm quyện bay
Lòng an, tâm tịnh mỗi ngày
Dứt phiền não đoạn, tỏ bày tánh chơn ... (Hoa Mai)

Thích Trí Giải

Chú thích:

[1] Lâmtế lục thị chúng, ĐĐ ThiênÂn, Triết học Zen, tr.103

[2] PhápBảo Đàn Kinh(Đoàn trung Còndịch), Sám Hối Phẩm, tr. 61

[3] 云 何 自 疑 汝 之 真 性, 性 汝 不 真, 取 我 求 實. Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ bất chân,thủ Ngã cầu thực. – Thủ LăngNghiêm kinh(V.N. P.T. hội xuất bản), q. II, tr. 16-17.- ThủLăng Nghiêm, -Linh Sơn, Phật Học, tr. 113-114

[4] Aṅguttara-Nikāya, II.p.34

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/01/2021(Xem: 5486)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6791)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
21/01/2021(Xem: 7035)
Nhân ngày Lễ Phật Thành Đạo năm nay, trong tâm tình hộ trì Tam Bảo, chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ tu hành nơi xứ Phật, đặc biệt là chư Tăng thường trú tại khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo.. Xin tường trình cùng chư vị một số hình ảnh của buổi cúng dường chư Tăng các truyền thống Đạo Phật (International Maha Sangha), chư Tăng Tibet, India, Lào, Miến, Thái, Bangladesh, Việt Nam.. tai Bồ Đề Đạo Tràng. (Với tổng số 500 vị, mỗi vị thọ nhận 1 phong bì với tịnh tài 1000Rupees- tương đương 14usd và cúng dường thọ trai)
21/01/2021(Xem: 5037)
Trường phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng tổ chức Pháp hội Nyingma Monlam Chenmo lần thứ 32 tại Đại Giác Ngộ Tự (Mahabodhi Temple), thành phố Bodh Gaya, tiểu bang Bihar, nơi mà ngày xưa, cách đây 2550 năm, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giác ngộ chân lý tối thượng dưới gốc cây Bồ-đề sau 6 năm khổ hạnh tinh chuyên. Sự kiện bắt đầu khai mạc vào ngày 14 tháng Giêng và sẽ kết thúc vào ngày 23 tháng Giêng năm 2021. Tuân theo nguyên tắc và hạn chế tập trung đông người do đại dịch Covid-19, sự kiện diễn ra chỉ có khoảng 100 vị Tăng sĩ Phật giáo tham dự.
21/01/2021(Xem: 4706)
Cư sĩ Matthew Kapstein, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1949, Giáo sư thỉnh giảng, nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm, học giả triết học Phật giáo Đại học Chicago, chuyên về lịch sử triết học Ấn Độ, Tây Tạng, và lịch sử văn hóa Phật giáo Tây Tạng, nghiên cứu những ảnh hưởng văn hóa trong việc Trung cộng cưỡng chiếm Tây Tạng. Ông là Giáo sư thỉnh giảng về Nghiên cứu Phật học tại Trường Đại học Thần học Chicago, Hoa Kỳ và Giám đốc Nghiên cứu Tây Tạng tại École pratique des hautes études ở Paris, Pháp.
20/01/2021(Xem: 5322)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca (theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sinh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch). Chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của sự thành đạo. Sau khi vượt thành xuất gia, Sa môn Cù Đàm trải qua nhiều năm tháng tầm sư học đạo và khổ hạnh nơi rừng già, mục đích tìm ra con đường thoát ly sanh tử. Ngài đã thọ giáo nơi các tiên nhân nổi tiếng như Kalama, Ramaputta, và đã đạt đến trình độ tâm linh như các vị ấy. Tuy nhiên, Ngài biết rằng ở cõi trời cao nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng cũng chưa phải là cứu cánh giải thoát vì còn trong Tam giới.
20/01/2021(Xem: 6071)
Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng mọi người và mọi vật có thường xuất hiện đến chúng ta trong cách này hay không. Khi chúng ta bị tác động bởi những tư tưởng trong một trình độ vi tế, thật khó để xác định chúng ta nắm bắt chúng như thế nào. Do thế, hãy xem xét một thời điểm khi mà chúng ta cảm thấy thù hận và khao khát mạnh mẽ. Một con người và sự kiện thù hận và khao khát dường như cực kỳ cụ thể, ngay cả hoàn toàn không thay đổi, có phải thế không? Khi chúng ta nhìn một cách sát sao, chúng ta sẽ thấy rằng không có cách nào để thừa nhận là chúng ta đã thấy những hiện tượng như lệ thuộc trên tư tưởng rồi. Chúng ta sẽ thấy rằng chúng dường như tồn tại trong những điều kiện của chính chúng.
19/01/2021(Xem: 4591)
Những món quà Phật giáo Hàn Quốc đã gieo hạt giống Bồ đề, hoa Bát nhã, đầy hy vọng tại Tanzania, đang hướng đến Châu Phi. Tổ chức phi lợi nhuận “Đồng hành Xinh đẹp” (Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36) bắt đầu chiến dịch gây Quỹ để gửi các vật phẩm cần thiết cho hoạt động của Trường Đại học Công nghệ và Nông nghiệp Bodhi Garam (보리가람농업기술대학) ở Tanzania, Châu Phi. Đây là một chiến dịch nhằm thu hút sự tham gia của chư tôn tịnh đức tăng già và Phật tử tại các cơ sở tự viện Phật giáo trên khắp đất nước Hàn Quốc, với đầy ý nghĩa bởi mang lại niềm hy vọng cho Châu Phi. Quang cảnh Trường Cao đẳng Công nghệ và Nông nghiệp Barley Garam và các sinh viên đang thực tập tại thao trường.
19/01/2021(Xem: 4773)
Tiến sĩ Frederick Lenz được biết đến với biệt danh là “Rama” (tiếng Phạn: रामा) và “Atmananda” (tiếng Phạn: आत्मानदा), ông bắt đầu công phu tu tập và hướng dẫn thiền định Phật giáo từ tuổi thập niên 20. Trong suốt cuộc đời, ông miệt mài truyền tải tinh hoa Phật giáo đến sinh viên phương Tây, bậc thầy về tâm linh, truyền bá Phật pháp tại Hoa Kỳ, bao gồm các giáo trình Phật giáo Tây Tạng, Thiền định, Advaita Vedanta (IAST Advaita Vedānta; Sanskrit अद्वैत वेदान्त; là một tiểu trường phái của triết lý Vedānta; và Huyền bí học (Mysticism), tác giả, nhà thiết kế phần mềm, nhà kinh doanh và sản xuất thu âm. . .
18/01/2021(Xem: 9331)
Paing Takhon, năm nay 24 tuổi hiện là người mẫu kiêm diễn viên, MC nổi tiếng ở Myanmar, nhưng anh là một Phật tử thuần thành, mới đây anh đã phát tâm tham dự khóa tu xuất gia ngắn hạn tại quê nhà. Anh chàng sở hữu thân hình cường tráng với chiều cao khủng 1m88, mái tóc dài lãng tử cùng loạt hình xăm chất ngầu nên được mệnh danh là "Aquaman châu Á". Paing Takhon gia nhập làng giải trí với tư cách người mẫu từ năm 2014. Ba năm sau anh còn lấn sân sang lĩnh vực điện ảnh và ca hát. Tất cả số tiền thu được từ album đầu tay anh đều quyên góp cho trẻ mồ côi. Ngoài ra, anh còn biết vẽ tranh sơn dầu, thích nấu ăn và yêu động vật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]