Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi đi nghe pháp

03/01/201212:50(Xem: 6543)
Tôi đi nghe pháp

dalailama-smh
TÔI ĐI NGHE PHÁP

Tịnh Thủy

Thật là một phước báu lớn lao, không riêng cho mình tôi mà có lẽ cho cả gần một ngàn người Việt Nam và khoảng hơn mười ba ngàn người Hoa Kỳ cùng các sắc dân khác đến nghe pháp và dự lễ Điểm Đạo do Ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chủ trì tại Long Beach Convention Center vào hai ngày thứ Sáu 25-9-2009 và Thứ Bảy 26-09-2009. Nhiều người đến đây từ các tiểu bang miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ, có người đến từ Canada, Alaska và Hawaii. Có thể nói đây là buổi lễ Phật giáo đông nhất từ trước đến nay được tổ chức tại miền viễn Tây Hoa Kỳ.

Trời miền Nam Cali hôm nay không có nhiều nắng nhưng lại có nhiều gió mát từ hướng biển thổi về nên trong lòng ai cũng cảm thấy như tươi hơn, vui hơn sau hai tuần nắng hạ gay gắt. Nhìn hàng người sắp hàng rồng rắn đi vào hội trường mà trong số đó số người Mỹ nhiều hơn người mình tôi mừng thầm vì Phật giáo đang đi vào lòng người dân bản xứ.

Trong hội trường rộng lớn với trên mười ba ngàn người hiện diện, nhưng lại rất yên lặng, không ồn ào như những nơi khác mà tôi đã từng tham dự.

ducdalailama-thuyetphap-usa-46

ducdalailama-thuyetphap-usa-47

Trên khán đài đức Đạt Lai Lạt Ma được thỉnh ngồi trên bục cao và phía dưới thấp là chư tăng ni Tây Tạng, Hoa Kỳ, Việt Nam và Trung Hoa ngồi xếp bằng hai bên. Trước khi ngài lên tòa đăng đàn thuyết pháp, ông Bob Foster, thị trưởng thành phố biển Long Beach đã ngỏ lời tri ân và hân hoan đón chào Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở lại thành phố. Sau đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trao tặng và choàng khăn trắng truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng cho ông Thị Trưởng.

Khi thốt ra những lời pháp đầu tiên bằng Anh ngữ, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ngài rất sung sướng có mặt tại đây và đã ưu ái nhắc đến Phật tử Việt Nam. Mở đầu thời thuyết pháp Ngài nói về tầm quan trọng của các tôn giáo lớn hiện nay trên thế giới trong đó có Phật Giáo là mang lại tình yêu thương, lòng từ bi, tính bao dung và hoà ái đến với nhân loại, để con người với nhiều truyền thống văn hoá và niềm tin tôn giáo khác nhau như Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ giáo, Phật Giáo… có thể sống chung hài hòa với nhau và cùng nhau cải tiến xã hội. Ngài cũng nhắc nhở Phật Tử Việt Nam, Trung Hoa và Hàn Quốc nên giữ truyền thống Phật Giáo của mình và cố gắng thực hành giáo lý của Đức Phật.

Tiếp theo là phần tụng Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Sankrit do một nhà sư gốc Ấn tụng, rồi tiếng Trung Hoa do một Ni Sư gốc Hoa tụng. Tiếp đến là tụng tiếng Việt và sau cùng là Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng chư Tăng Tây Tạng tụng Bát Nhã Tâm Kinh tiếng Tạng. Khi bài Bát Nhã tâm Kinh tiếng Việt quen thuộc cất lên, lòng tôi tràn ngập niềm hân hoan vui sướng như chưa bao giờ có được. Xin cảm ơn Hoà Thượng trưởng ban tổ chức Khensur Rinpoche Geshe Lobsang Jamyang.

Sau đó là phần thuyết giảng giáo lý Tứ Diệu Đế, ngài thuyết bằng tiếng Tây Tạng, sau đó được thông dịch ngay sang tiếng Anh bởi vị giáo sư người Tây Tạng. Những người Việt và Trung có thể nghe phần thông dịch bằng tiếng mẹ đẻ của mình qua máy nghe làn sóng FM.

Trước khi đi vào nội dung đề tài, Đức Đạt lai Lạt Ma đã phác họa sơ qua về bối cảnh tôn giáo trước và sau khi Phật đản sanh ở lục địa Ấn Độ. Đối với Phật Giáo ngài nhấn mạnh, dù từ trước đến nay Phật giáo được phân làm nhiều bộ phái, trường phái và hệ phái nhưng tựu chung tất cả đền có cùng một mục đích là giải thoát khỏi khổ đau luân hồi, mang lại an lạc và hạnh phúc đến cho mọi người. Đây là một triết lý chung và thiết yếu của đạo Phật mà người Phật tử cần phải biết và nói cho người khác biết.

Mở đầu phần nội dung, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói giáo lý Tứ Diệu Đế được coi là một trong những giáo lý nền tảng của đạo Phật. Nội dung là nói lên sự thật hay là chân lý của khổ đau (Khổ), nguyên nhân khổ đau (Tập), sự chấm dứt khổ đau (diệt khổ) và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau (Đạo).

Ngài nói rằng: khổ đau hiện diện trong mọi dạng của chúng sinh hữu tình và tuỳ tâm thức và môi trường xung quanh mà mỗi người cảm nhận về nỗi khổ đau khác nhau. Có người nhìn khổ đau như một bầu trời ảm đảm, cho rằng đời là bể khổ và từ tư tưởng tiêu cực đó dẫn đến thái độ chán chường cuộc đời, không hăng hái học hành, làm việc và phát triển cộng đồng. Có người nhìn khổ đau như là một kinh nghiệm cần phải vượt qua, như là một hệ quả tất yếu do mình đã tạo ra trước đây. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi, ở đó các pháp đều phụ thuộc vào nhau để sinh khởi, không một sự vật nào có tự tánh độc lập hay riêng rẽ, tất cả mọi sự việc đều chỉ là tương tác giữa nhiều nguyên nhân và điều kiện (nhân và duyên), cũng là luật nghiệp báo nhân quả chi phối mọi hành động của con người. Những khổ đau sinh khởi là kết quả của các hành động bất thiện từ thân, khẩu, ý. Ngược lại những niềm vui sướng hạnh phúc sinh khởi là kết quả của các hành động tốt lành cũng từ thân, khẩu, ý của chúng ta. Một khi đã thấu hiểu được lý duyên khởi này, ngài nói: “chúng ta sẽ nhìn mọi sự vật trong tác động của luật nhân quả và thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa khổ đau và nguồn gốc của nó”. “Và khi chúng ta thừa nhận mối quan hệ này, thì cũng thừa nhận rằng chúng ta có khả năng chấm dứt được khổ đau”.

Giáo lý Tứ Diệu Đế cho biết có hai loại nguyên nhân và kết quả: các nguyên nhân gây ra khổ đau và các nguyên nhân tạo ra hạnh phúc. Và mục đích của giáo pháp này sẽ giúp chúng ta đạt được hạnh phúc và vượt thoát khổ đau nếu chúng ta nỗ lực tu tập hàng ngày. Ngài nhấn mạnh nguyên nhân sâu xa và đầu mối căn bản nhất của khổ đau chính là vô minh, chính vô minh làm sinh khởi các hành vi tác ý, rồi các tác ý này lại làm sinh khởi một đời sống trong thế giới luân hồi khổ đau. Và vô minh ở đây theo ngài nói là vô minh về luật nhân quả.

Trước khi kết thúc, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tóm gọn giáo lý Tứ Diệu Đế qua ba điều. Thứ nhất, nhận thức khổ đau là các sự thật không thể tránh khỏi của cuộc đời. Thứ hai, nhận thức nguyên nhân tạo ra khổ đau, mà vô minh là đầu mối căn bản nhất. Thứ ba, giải trừ khổ đau bằng các nỗ lực tu tập theo giáo lý đức Phật để đạt đến đích tận cùng tối thượng là Niết Bàn, giải thoát mọi khổ đau luân hồi.

Sau phần giảng thuyết về Tứ Diệu Đế chấm dứt vào giữa trưa, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dành cho báo giới một buổi họp báo riêng để Ngài trình bày một số việc và để cho báo chí có cơ hội đặt một số câu hỏi nhờ Ngài trả lời. Đến 1giờ 30 ngài trở lại hội trường ngồi thiền trước khi bắt đầu buổi Lễ Điểm Đạo Phật A Di Đà.

Do mối quan hệ giữa Tính Không và Duyên Khởi và sự giải thoát trong đạo Phật nên trước khi lễ Điểm Đạo bắt đầu ngài đã dành khoảng một giờ để giảng sơ qua về Tính Không (Emptiness), về Vô Ngã (No-self). Ngài nói Tính Không không phải chỉ là một sự trống không thuần tuý hay phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại. Tính Không theo ngài nên được hiểu trong ý nghĩa là bản chất phụ thuộc lẫn nhau của thực tại: “Chính vì có nguồn gốc duyên khởi mà sự vật hoàn toàn không có sự tồn tại độc lập.” Nhờ hiểu được điều này mà chúng ta biết rằng các cảm xúc và ý tưởng gây phiền não khổ đau trong tâm ta khởi lên từ vô minh làm chúng ta hiểu lầm như là thật là có và tồn tại một cách độc lập. Thật ra, chúng vốn là không thật, chỉ là duyên khởi, là Tính Không. Tính Không này, theo ngài phải được phát triển qua việc thực hành hai pháp thiền định samatha và thiền quán vipassana, tức là sự kết hợp (union) giữa hai trạng thái nhất tâm (single mind) và sự quán chiếu nội tâm. Điều này chỉ dễ dàng thành tựu khi hành giả luôn nghiêm trì giới hạnh. Đó là nói một cách tóm gọn về ba pháp môn tu tập của Phật giáo là Giới, Định và Tuệ.

Một điều quan trọng nữa, ngài nhấn mạnh là lòng từ bi mà toàn bộ giáo pháp của đức Phật đặt nền móng trên đó. Chính vì lòng từ bi mà chúng ta mới có thể phát triển tâm nguyện tìm cầu sự giác ngộ để giúp đỡ muôn loài chúng sinh đang ngụp lặn trong khổ đau. Điều này gọi là phát tâm Bồ đề (generation of bodhichitta), nghĩa là tâm luôn hướng về chúng sinh và vì chúng sinh và (mình) ước muốn mãnh liệt tìm cầu giác ngộ viên mãn để cứu vớt chúng sinh, mang lại hạnh phúc và lợi lạc cho chúng sinh. Những ai muốn như thế có thể tham dự vào một nghi lễ phát tâm Bồ Đề để phát nguyện lý tưởng Bồ tát và thực hành lý tưởng này qua ba điều giới luật (tam tụ tịnh giới): thứ nhất là ngăn ngừa hết thảy mọi điều bất thiện; thứ hai là quyết tâm thành tựu hết thảy các điều lành; và thứ ba là luôn giúp đỡ muôn loài chúng sinh.

Tiếp theo sau đó là lễ phát tâm Bổ Đề cho những ai muốn phát nguyện thực hành con đường lý tưởng Bồ tát qua ba điều giới nêu trên và cùng phát nguyện:

Cho đến khi hư không còn tồn tại
Và chúng sinh còn chịu đựng khổ đau,
Nguyện cho tôi còn tồn tại,
Để xóa tan nỗi khổ đau trên thế gian này.

Sau lễ phát tâm Bồ Đề, Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trì Lễ Điểm Đạo Phật A Di Đà (Amitabha Buddha Initiation) và qua ngày hôm sau ngài sẽ chủ trì Lễ Điểm Đạo Phật Dược Sư (Medicine Buddha Initiation).

(Xem tiếp phần hai: Tôi Đi Dự Lễ Điểm Đạo)
Tịnh Thủy




Dưới đây là một số hình ảnh ghi nhận phía ngoài hội trường
của hai phóng viên Việt Báo (Tâm Huy) và nhật báo Orange County Register:

ducdalailama-thuyetphap-usa-40
Long Beach Convention Center nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp

ducdalailama-thuyetphap-usa-44

ducdalailama-thuyetphap-usa-45
Sắp hàng từ bãi đậu xe

ducdalailama-thuyetphap-usa-43

ducdalailama-thuyetphap-usa-12

Sắp hàng từ bãi đậu xe
ducdalailama-thuyetphap-usa-06

Thầy Thích Chơn Thành cười sung sướng

ducdalailama-thuyetphap-usa-11

Thầy Thích Chơn Thành đang lắng nghe ký gỉa Đỗ Dũng phỏng vấn

ducdalailama-thuyetphap-usa-08
Đang qua trạm kiểm soát rà vũ khí như ở các phi trường

ducdalailama-thuyetphap-usa-20

Nhân viên ban tổ chức LB. Convention Center

ducdalailama-thuyetphap-usa-17

Các tình nguyên viên trong ban tổ chức chùa Tây TạngGeden Shoeling

Dưới đây là một số hình ảnh ghi nhận bên trong hội trường

ducdalailama-thuyetphap-usa-47
Một góc hội trường Long Beach Convention Center

dalailama-2-14
Đức Đạt Lai Lạt Ma đăng đàn thuyết pháp

dalailama-2-43
ducdalailama-thuyetphap-usa-46

Đức Đạt Lai Lạt Ma đang thuyết pháp về Tứ Diệu Đế

dalailama-2-65

Đức Đạt Lai Lạt Ma trao khăn trắng truyền thống cho một số Phật tử VIP.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7558)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9055)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14224)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8158)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12810)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8446)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10015)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9346)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8335)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8694)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]