Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt

25/11/201102:46(Xem: 6883)
Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt
APUTTAKA-SUTTA
Sự Giàu có của một người Keo kiệt
Hoang Phong

Cómột lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều,đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. VuaPasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôncất lời hỏi vua Pasedani như sau:

-Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúctrưa này ngài ở đâu?

VuaPasenadi đáp lại như sau:

- BạchThế Tôn, tại thành Xá-vệ này có một ngườithật giàu có vừa qua đời. Hắn chết mà lại không có con [thừa kế]. Sau khi đem hếtcủa cải của hắn xung vào ngân khố hoàng gia thì tôi đến đây: [của cải của hắn]gồm tám triệu đồng tiền vàng, và số tiền bằng bạc thì nào có đếm xiết được. Thếnhưng, Bạch Thế Tôn, lúc còn sống thì hằng ngày bữa ăn của người giàu có ấy chỉgồm có một cái bánh làm bằng đậu khô để ăn kèm với cháo. Quần áo thì vỏn vẹn chỉcó một tấm vải dệt bằng chỉ gai đủ quấn được hơn nửa thân người. Phương tiện dichuyển của hắn là một chiếc xe bò cũ kỹ, nóc lợp bằng rơm.

Đức Phật bèn bảo rằng:

- Đúng đấy, này đại vương, cũng có thể xảy ra như thế được. Một người keokiệt vơ vét được một gia tài kếch xù, không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho riêng mình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho cha mẹ. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho gia đình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho tôi tớ trong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắnkhông dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn hữu và nhữngngười cộng sự. Hắn không dành riêng một phần của cải để cúng dường người tuhành và các vị tu sĩ để mang lại công đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiệnvà hướng mình [tái sinh] vào cõi thiên nhân.

"Củacải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽbị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, bị cuốntrôi vì lũ lụt, hoặc rơi vào tay những người thừa kế chẳng biết yêu quý mình.Này đại vương, nếu không biết sử dụng của cải một cách thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Nàyđại vương, đấy cũng chẳng khác gì một cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lànhvà trong vắt, thế nhưng lại ở vào một chốn hoang vu, không có ai đến được để uống,hoặc tắm mát, hoặc dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước khôngđược sử dụng để mang lại hạnh phúc thì cũng sẽ bị thất thoát đi một cách vô ích.

Cũngthế, này đại vương, một người keo kiệt có một gia tài kếch xù không hề biếttiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho mình. Hắn không biết tiêuxài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ [...]. Như thế, này đạivương, nếu một gia tài kếch xù không được sử dụng thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Thếnhưng, này đại vương, nếu đấy là một người có lòng rộng lượng, tích lũy được mộtgia tài kếch xù, biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thúcho mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho chamẹ. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho vợ con.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho tôi tớtrong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắn biết đem ra tiêu xài đểmang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn bè và những người cộng sự. Hắn biếtđể riêng ra một ít của cải để cúng dường người tu hành và các tu sĩ để mang lạicông đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiện và hướng mình [tái sinh] vào cõithiên nhân.

Nàyđại vương, đấy là cách biết sử dụng gia tài kếch xù của mình một cách thích đáng,không bị vua chúa tịch thu, không bị trộm cắp vơ vét, không bị thiêu hủy vì hỏahoạn, không bị cuốn trôi vì lũ lụt, không rơi vào tay những kẻ thừa kế không biếtyêu thương mình.

"Nàyđại vương, đấy là cách sử dụng của cải một cách thích đáng, không để bị mất đi màbiết đem ra tiêu xài để mang lại hạnh phúc. Này đại vương, đấy cũng giống như mộtcái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành và trong vắt, ở vào một nơi thuận tiện,cạnh một ngôi làng hay một thị trấn giúp cho mọi người có thể đến uống, tắmmát, hoặc để dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước được sử dụngthích đáng thì chẳng những sẽ không thất thoát đi mà lại còn mang lại hạnhphúc.

"Cũngthế, này đại vương, một người có tấm lòng rộng lượng, thu góp được một gia tàikếch xù và biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú chomình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho giađình.[...]. Này đại vương, sử dụng gia tài kếch xù một cách thích đáng không phảilà một sự phí phạm, mà đấy là cách tiêu xài để mang lại hạnh phúc.

Consuối mát nơi chốn hoang vu,
Nàocó ai đến được để uống?
Nướctràn đi, phí phạm và vô ích.
Nàocó khác gì của cải của một người keo kiệt,
Khôngbiết tiêu xài cho mình, cũng chẳng biết hiến dâng.
Ngườicó tấm lòng rộng lượng,
Thugóp được của cải và ý thức được bổn phận mình,
Sẽtiêu dùng để nuôi dưỡng mẹ cha và giúp đỡ bạn bè.
Thanhcao, tấm lòng luôn rộng mở,
Khichết hắn sẽ tìm thấy phúc hạnh nơi cõi thiên nhân.
(Samyutta Nikaya,I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)

Vài lời ghi chú

Aputtaka, tên của bản kinh có nghĩa là "Người không có con"(để thừa kế), không phải là tên củamột nhân vật nào cả. Theo Pya Tan (SamyuttayaNikaya, translated and annotated by Pya Tan, 2006) thì chữ này có ý ám chỉ mộtngười không đáng để cho chúng ta ghi nhớ, tức mang ít nhiều tính cách miệt thị.Thật ra thì có ít nhất hai bản kinh mang tên là Aputtaka-Sutta, cả hai đều cóphần bố cục khá giống nhau, chỉ có phần nội dung nhằm mô tả người keo kiệt thì mớicó sự khác biệt (Smyuttaya NikayaSN,III, 19 và SN, III, 20). Bài kinh chuyển ngữ dưới đây là bài kinhAputtaka-Sutta -1.

Giới luật Phật Giáo cấmngười xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đốivới người thế tục thì Phật giáo không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng "những phương tiện sinh sống đúng"(Bát Chánh Đạo), và luôn nhắc nhở họ: "Phải tiêu xài và giúp đỡ người khác".Thật thế có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như khuyên phảitiêu xài các nguồn lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại hạnh phúc, để nuôinấng mẹ cha, giúp đỡ bạn bè, cấp dưỡng cho người tu hành (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một cách lương thiện, tứckhông gây ra thiệt hại cho các chúng sinh khác (lường gạt, hay chăn nuôi súc vậtđể giết thịt) và môi trường thiên nhiên (chặt cây, phá rừng...), và nhất là phảichia sẻ sự giàu có với những người chung quanh, và phải luôn tự cảnh giác khôngđược để vướng vào các thứ cảm tính kiêu căng (AnguttaraNikaya, I,181), v.v...

Nói chung đối với ngườithế tục Phật giáo không cấm cản việc tìm kiếm những thứ thích thú "giác cảm",dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật Giáo ý thức đượclà không thể nào giúp tất cả mọi người trong chốc lát có thể quán thấy được nguồngốc sâu xa của khổ đau phát sinh từ những thứ hạnh phúc ấy. Dầu sao thì nhữngniềm hạnh phúc tạm bợ đó ít ra cũng tránh cho họ được phần nào những thứ khổ đauthật thô thiển, chẳng hạn như hận thù, hung dữ, ích kỷ, tham lam, keo kiệt, bủnxỉn... Vì thế trong bài kinh trên đây Đức Phật cũng đã khuyên những người có củacải nên đem ra tiêu xài để mang lại "niềmhân hoan và thích thúcho chính mình,cho cha mẹ và những người chung quanh".

Cách nay đã hơn hai ngànnăm trăm năm thế mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo đói và xem đấy là một sự bấtcông trầm trọng của xã hội:

"Khi sự giàu có không được chia sẻ cho người nghèo, thì tình trạngnghèo đói lại càng gia tăng. Khi tình trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắpcũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số khí giới (để tự vệ và trừkhử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũnggia tăng"(Anguttara Nikaya,III, 68).

Ngày nay dân số trên địacầu đã tăng lên bảy tỉ người, tình trạng nghèo đói trở nên trầm trọng hơn baogiờ hết. Ủy Ban Nhân Quyền của cơ quan Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi nămgiây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số khí giới trên hành tinh này cũngtheo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn cả sự cần thiết, để thích nghi với sựnghèo đói đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong sốđó biết đâu cũng có cả chúng ta.

Phật giáo luôn luônkhuyến khích các hành động từ thiện cùng việc bố thí (dâna) và xem đấy là nhữngđiều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sốngtương lai. Không nên "ăn một mình" và "làm ngơ" trước cái đóicủa kẻ khác. Những gì mình được hưởng hôm nay là nhờ vào những gì xứng đáng màmình đã tạo được trong các kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bầntiện, keo kiệt thì tránh sao khỏi sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh đói nghèo. Đấylà những gì sơ đẳng nhất trong giáo lý nhà Phật.

Thế nhưng oái oăm thay,nào có mấy người trong chúng ta lại tự nhận là mình giàu có đâu. Gặp nhau thìthan thở là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, thật là dại vì tiền dư bao nhiềulà dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó thì tiền mua nhà trả góp cho ngân hàngcòn hơn chục năm nữa mới hết, tệ hơn nữa là hôm qua đã dốc túi mua mấy chục tấmvé số mà chẳng trúng được đồng nào. Tết nhất đến nơi, còn phải quà cáp biếu xéncho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ravẻ với người ta chứ..., toàn là nợ nần và các chuyện phải tiêu xài. Thương thaycho sự túng quẫn của họ.

Thật vậy có mấy ai nhìnthấy cái "giàu có" của mình đâu? Củacải thật ra chỉ là những con số vô nghĩa, sự giàu có đích thật là ở trong đáytim mình. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta trông thấy một đứa bé lang thang, ráchrưới, đen đúa và bẩn thỉu đang đứng nhìn những chiếc quần áo mới treo lủng lẳngtrong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước mắtấy mới đúng thật là sự giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênhmông.

Ngoài ra còn có một sựgiàu có khác nữa mà tất cả mọi người đều ngang hàng nhau, không thể vin vào đấyđể ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đềucó hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăngđể xem phim Hàn quốc bất tận, xem cô này "yêu" cậu kia, cậu kia"thương" cô khác, ghen tuông, khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn?Hay là chúng ta thích sang nhà hàng xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quánnhậu, đi uống "cà-phê vườn", "cà-phê đèn mờ" để nghe nhạc"trữ tình" bất tận? Đấy là một sự phung phí lớn lao nhất của kiếp conngười, tương tự như chúng ta có một cái "hồnước mát và tinh khiết",thế nhưng không biết lấy nước ấy để tắm và cũngkhông có ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.

Nếu biết sử dụng nhữnggiây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu giúp mình trở nên nhữngcon người xứng đáng hơn và cao cả hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành mộtgia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách "mang ra tiêu xài của cải của mình mộtcách thích đáng". Nếu quay nhìn lại quãng đời đã trải qua thì mỗi ngườitrong chúng ta cũng nên tự hỏi xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báuấy của kiếp người.

Tuy nhiên cũng có thể cóngười phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu tập vượt quá khả năng của họ.Thật vậy những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiếucố gắng và kiên trì, thế nhưng những gì phát xuất từ đáy tim mình thì cũng khôngđến đỗi khó khăn gì cho lắm. Chẳng hạn, nếu trông thấy cha mình ngồi trong yênlặng, bâng khuâng nhìn ra đường, thì rót một tách nước trà để mời cha rồi ngồixuống với cha vài phút, nếu trông thấy những nét u uẩn hiện lên trong đôi mắt củamẹ thì cố tìm một vài lời ngọt ngào để gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng cóthể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có thìgiờ dọn dẹp nhà cửa hoặc bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế nào cókhó khăn gì đâu, dần dần rồi ta sẽ có thể thực hiện được những việc khó khăn hơn,ít ra thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi xem "Cô gái ĐồLong" tung chưởng hết hiệp này sang hiệp khác, đến khi đứng lên thì uể oải,tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.

Tóm lại hãy hiến dângnhững gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếpngười này. Chúng ta luôn luôn giàu có hơn là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũngnên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không. Thiển nghĩ bài kinh trên đây dạycho chúng ta hiểu rằng những gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không ích lợigì mà chúng sẽ mất đi vào một lúc nào đó.

Để thay cho phần kết luậncũng xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang tên là Aditta-Sutta,tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta có nghĩa là bốc cháy, do đó có thểtạm dịch bài kinh này là bài Kinh về HỏaHoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất dấu trong đó sẽ hóa thànhtro bụi, chỉ có những gì đã mang cho người khác thì mới còn lại mà thôi.

Thế nhưng đâu phải chỉcó một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy. Già nua đang bốc cháy,cái chết đang bốc cháy. Theo định nghĩa của Phật Giáo thì quá trình của sự giànua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đóvận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết xảy ra. Vì thế tất cả chúng sinhtrong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vôthường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã ý thức được ngọn lửa mênh mông đóđang thiêu đốt thân xác mình và cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việcso kè từng xu mà chỉ biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì đểhiến dâng cho kẻ khác.

Bối cảnh của bài kinh nàythật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên lặng giữa đêm khuya nơingôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata) hiện ra, ánh hào quang soisáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồisang một bên. Đấng Thế Tôn cảm ứng cho vị nữ thiên nhân hát lên bài hát của mộttrận hỏa hoạn để hàng ngàn đệ tử của Ngài và các người thế tục đang mơ màngtrong khu vườn có thể lắng nghe giữa đêm thâu thanh vắng. Sau đây là phần chuyểnngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếngAnh của Thanissaro Bhikkhu (The Access toInsight, June, 2010):

"Tôi từng được nghe như thếnày: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện của ngài Cấp Cô Độc(Anathapindika) trong khu vườn Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửađêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị nữthiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khingồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:

"Khi căn nhà bốc cháy,
Những gì còn sót lại,
Là những vật đã cho.
Kìa của cải giữ lại,
Đang hóa thành bụi tro.
Cả thế gian bốc cháy!
Tuổi già thanh củi mục,
Cái chết ngọn lửa hồng.
Bảo toàn nhanh của cải:
Hiến dâng bằng hai tay.
Vật cho là quả ngọt,
Giữ lại, mối lo buồn:
Nào vua quan dòm ngó,
Nào kẻ trộm rình mò,
Hỏa hoạn, một đống tro.
Kìa thân xác bỏ lại,
Nằm kia cùng của cải.
Hỡi những ai giác ngộ!
Nắm lấy hạnh phúc này,
Bằng hai tay để ngửa.
Hân hoan đôi bàn tay,
Dù chỉ là ít ỏi,
Một chút này hiến dâng.
Con đường nào rộng mở,
Cõi thiên nhân đón chờ".
(Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta Nikaya, I,41)

Dịch thơ rất khó để tôn trọngtừng chữ một, do đó xin chép lại dưới đây bản dịch bằng tiếng Anh củaThanissaro Bhikkhu nhằm giúp các độc giả nào muốn tìm hiểu thêm:

When a houseis on fire
the vessel salvaged
is the one that will be of use,
not the one left there to burn.

So when theworld is on fire
with aging and death,
one should salvage [one's wealth] by giving:
what's given is well salvaged.

What's givenbears fruit as pleasure.
What isn't given does not:
thieves take it away, or kings;
it gets burnt by fire or lost.

Then in theend
one leaves the body
together with one's possessions.
Knowing this, the intelligent man
enjoys possessions and gives.

Havingenjoyed and given
in line with his means,
uncensured he goes
to the heavenly state.


Bures-Sur-Yvette, 21.11.11

Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5593)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5510)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6910)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4293)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9119)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5456)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5081)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5675)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6157)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5170)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]