Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc tương phùng sau 40 năm của cha con cô gái không vận

27/04/201515:41(Xem: 7841)
Cuộc tương phùng sau 40 năm của cha con cô gái không vận

Cuộc tương phùng sau 40 năm của cha con cô gái không vận

'Như sắp về nước rồi', người cha tuổi ngoài 60 mừng vui nghẹn lời. Đạp xe giữa trưa nắng Sài Gòn, ông lựa tấm vải hoa để ghé tiệm may cho con gái chiếc áo dài.

Hàng chục năm thất lạc nhau, ông Phan Minh Triết ở quận 4, TP HCM, chưa bao giờ nguôi ý nghĩ rằng sẽ có ngày trùng phùng với cô con gái mà số phận đã đẩy đưa cô nằm trong số những đứa trẻ Babylift tháng 4 năm 1975 được người Mỹ di tản ra nước ngoài. Tricia Houston - tên cô ngày nay, 41 tuổi, đang sống ở Mỹ. Tên tiếng Việt của cô là Nguyễn Ngọc Như.

Những ngày tháng 4 của 40 năm trước, chiến dịch không vận của Mỹ đã mang đứa con đầu lòng, kết quả tình yêu của ông Triết và bà Nguyễn Thị An đi xa biền biệt cùng với khoảng 3.000 đứa trẻ mồ côi Việt Nam, đến nơi cách nửa vòng trái đất. Thời điểm chiến tranh ác liệt, dưới áp lực tổng động viên, ông Triết phải lánh đi làm ăn xa. Bà An ở lại Sài Gòn sinh con, gặp hoàn cảnh khốn cùng không thể lo cho con chu đáo nên đem gửi bé Như cho Hội Dục Anh. Đứa trẻ sau đó được người ta chuyển vào cô nhi viện trong nhà thờ Hàng Xanh - Gia Định, rồi bị di tản theo chiến dịch Babylift. 

Chiến tranh chấm dứt, ông Triết trở lại Sài Gòn, tìm đến Hội Dục Anh mong xin lại đứa con thì đã không thể gặp. Suốt những năm dài bặt tin con, ông Triết luôn mong nhớ và nuôi hy vọng tìm kiếm đứa con gái đáng thương. Hành trang ông mang theo để tìm con chẳng có gì ngoài tấm hình họa lại chân dung bà Nguyễn Thị An theo trí nhớ.

baby-1985-1429586218.jpg

Nguyễn Ngọc Như (Tricia Houston) được gia đình nuôi chụp lúc mới sang Mỹ.Ảnh gia đình cung cấp.

Chưa một ngày thôi nhung nhớ, ôm đứa con trai nhỏ hiện tại mà ông Triết chạnh lòng vì suốt mấy chục năm chưa một lần ôm đứa con gái thất lạc vào lòng để bày tỏ tình cảm thương yêu. Ông bảo: “Ôm được nó chắc nước mắt sẽ giàn giụa”. Nhiều năm ròng, hễ có cơ hội gặp gỡ người nước ngoài hay các tổ chức nước ngoài, ông Triết đều gửi gắm câu chuyện của mình với hy vọng mong manh tìm được manh mối. Nhiều người hỏi, tìm con đã mấy chục năm có lúc nào ông muốn bỏ cuộc. Nhưng với ông Triết: “Tôi sẽ dành cả cuộc đời để tìm con”.  

Một cơ duyên đến vào giữa năm 2011, ông Triết tham gia chương trình lấy mẫu thử ADN tìm thân nhân thất lạc. Đến cuối năm 2012, mẫu thử của ông đến được tổ chức Operation Reunite (Chiến dịch hội ngộ). Với sự giúp đỡ nhiệt tình của bà Trista Goldberg, Giám đốc Operation Reunite, gần 7 tháng sau, niềm hạnh phúc vỡ òa khi họ báo kết quả mẫu ADN của cô gái Tricia Houston hoàn toàn trùng khớp với ông Triết. Đó là khi cha con cách biệt 38 năm. Thật trùng hợp, lúc này Tricia đang đảm nhận chức thư ký của tổ chức thiện nguyện Operation Reunite nhằm giúp những đứa trẻ Babylift năm nào tìm lại nguồn cội bằng phương pháp thử ADN. Công việc của cô nhằm kết nối những đứa trẻ với quê hương và chính cô đã tìm lại được gốc gác, tình thân của mình.

Cô hiện là giáo viên tiểu học ở Mỹ, dạy cùng trường với người mẹ nuôi. Trong thư gửi cha lần đầu tiên hai người nhận ra nhau nhờ mẫu thử AND trùng khớp, Tricia viết: "38 năm qua con đã được nuôi dưỡng lớn lên trong đầy đủ tình thương. Tháng Giêng năm 1975, con đã được chuyển từ Hội Dục Anh sang nhà nuôi trẻ World Vision ở Gia Định. Ở đó con được chăm sóc kỹ lưỡng, khỏe mạnh hơn. Tháng 4/1975 con được gửi về Mỹ bằng máy bay trong chiến dịch di tản trẻ em Babylift”.

Mới đây lần đầu tiên Tricia trở về Việt Nam, cô giấu thời gian chuyến bay hạ cánh vì không muốn cha quá xúc động. Thế nhưng người cha vẫn lặng lẽ đến ngồi lặng ở một góc khuất của khu đón người thân trên sân bay Tân Sơn Nhất, mong được nhìn con từ xa xa. Từ lúc tìm được con, ông Triết tập tành học tiếng Anh để có thể giao tiếp với con gái. Đến lúc gặp con, niềm vui sướng trong ông nghẹn ngào, ông lúng túng không thể bày tỏ rõ ý nghĩ của mình. Tricia vẫn hiểu và cảm nhận tình cảm chân thành từ người cha mình qua những từ tiếng Anh chưa được chuẩn xác.

ngoc-nhu-2-1428380066-660x0.jpg

Chị Như về thăm cha và gia đình, mặc bộ đồ bà ba cha may cho. Ảnh gia đình cung cấp.

2 bộ áo dài, 2 bộ bà ba kèm khăn rằn quấn cổ là món quà nhỏ của người cha già muốn chăm chút cho đứa con gái 40 năm trời chưa một lần gặp gỡ. "Nhìn con ướm chiếc áo bà ba màu xanh lá, quàng chiếc khăn rằn caro đen, lòng tôi vui rộn ràng như tuổi già của mình bỗng chốc mà viên mãn", ông bố chia sẻ. Còn Tricia mang về album ảnh của mình với những khoảnh khắc từ lúc lọt lòng, vào tiểu học hay tốt nghiệp cấp 3 với chú thích được dịch ra tiếng Việt để gia đình có thể hiểu. Cô mong với những bức ảnh về các dấu mốc quan trọng trong đời, cha hiểu và có sự kết nối với mình hơn trong lần đầu gặp gỡ.

Trong một tuần Ngọc Như ở Việt Nam, hai cha con đã có dịp về thăm quê tổ ở An Giang và tên cô được điền vào gia phả của dòng họ. Điều này khiến Ngọc Như cảm thấy thân thiết, có sự kết nối hơn với quê hương. Cô cũng đang mày mò học tiếng Việt qua từ điển.

Khánh Ly

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 9773)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 15704)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 11616)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 60350)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 7656)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 8886)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 13317)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 8141)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 8306)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 10725)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]