Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Sử Các Thánh Tích Phật Giáo Tại Ấn Độ

14/07/201112:22(Xem: 12756)
Lược Sử Các Thánh Tích Phật Giáo Tại Ấn Độ

LƯỢC SỬ CÁC THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO TẠI ẤN ĐỘ

H.T. Thích Trí Chơn

toyoq

DUYÊN KHỞI

Là Phật tử, ai cũng mong có dịp đến chiêm bái, ít nhất là một lần trong đời mình, các thánh tích Phật Giáo tại Ấn Độ. Đọc lịch sử đức Phật, phần đông Phật tử đều biết đại khái qua kinh sách Phật giáo, rằng quê hương của đức Phật là vương quốc Thích Ca (SakyaKingdom), thành Ca Tỳ La Vệ(Kapilavastu). Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath)và nhập Niết Bàn (tịch diệt) ở rừng Sa La tại Câu Thi Na (Kusinagara); nhưng không phải ai cũng có duyên lành hành hương đến được đất Ấn để chiêm bái, chứng kiến tận mắt các Phật tích đó.

Từ lâu, ngay khi đang còn tu học ở Ấn Độ, khoảng hơn 30 năm trước, chúng tôi đã có ý định biên soạn một cuốn sách, viết đầy đủ về lược sử các Phật tích nói trên, để giúp cho Phật tử Việt Nam, dù chưa có dịp qua Ấn chiêm bái, vẫn hiểu biết được phần nào các Thánh Tích Phật Giáo thiêng liêng tại Ấn Độ, nhưng vì lúc ấy, quá bận lo đèn sách, nên chúng tôi chưa thực hiện được. Hoài bão này cứ ôm ấp mãi cho đến giữa năm 1977, vì nhu cầu Phật sự, chúng tôi đành rời quê hương xứ Phật trong luyến tiếc, để sang Hoa Kỳ.

Từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, gần 8 năm qua, chúng tôi lại phải dấn thân vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh: lập chùa làm trụ trì, lãnh đạo, hướng dẫn Phật tử, nên rồi ngày lại, tháng qua, năm đến; cứ như vậy, cuộc đời người tu sĩ trên đất cờ hoa, mãi bận lo suốt ngày với không biết bao nhiêu Phật sự đa đoan chồng chất, đến nỗi hằng ngày không có chút thì giờ rảnh rỗi để nghỉ ngơi, còn nói chi đến việc đọc, và viết sách.

Tám năm nhanh chóng trôi qua như “bạch câu quá khích” (ngựa trắng chạy qua cửa sổ), đời người tăng sĩ, nhất là tăng sĩ Việt Nam nơi hải ngoại, với biết bao nhiêu khó khăn, gian lao thử thách, biến đổi thăng trầm; mãi đến hôm nay, nhờ nhân duyên Phật Pháp nhiệm mầu xoay chuyển, chúng tôi mới có hoàn cảnh để thực hiện nguyện ước hơn 30 năm trước của mình, là viết về lược sử các Thánh tích liên hệ đến cuộc đời cao siêu của đức Phật ở Ấn Độ.

Phật giáo ngày nay đã trở thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, chiếm hàng trăm triệu tín đồ khắp năm châu. Do đó, người Phật tử muốn thấu hiểu giáo lý của đức Phật, không thể không biết, hay biết lờ mờ và sai lạc về nơi nguồn gốc đã phát sinh ra Phật Giáo, và các Thánh tích gắn liền với đời sống vị giáo chủ của mình, là đức Phật ở Ấn Độ. Hơn nữa, kiến thức lịch sử về các Phật tích, sẽ soi sáng giúp chúng ta hiểu biết tường tận, với nhiều thích thú hơn, về cuộc đời của đức Bổn Sư Thích Ca Từ Phụ, và làm tăng thêm niềm tin ở chúng ta rằng, đức Phật là một Thánh nhân lịch sử có thật, không phải là một nhân vật thần thoại; với các di tích còn lại đến ngày nay, rải rác khắp nơi trên đất Ấn, mà chúng ta có thể đến chiêm bái tại chỗ, nhìn thấy tận mắt; dù đã trải qua hơn 2.500 năm, với những công trình khảo cứu, khám phá, xác nhận của các sử gia, và những nhà khảo cổ trứ danh Đông lẫn Tây Phương. Chính vì ý thức được tầm quan trọng, cũng như sự đóng góp lợi ích lớn lao của các Phật tích Ấn Độ, cho việc nghiên cứu và hiểu biết, nhất là làm tăng trưởng niềm tin Tam Bảo đối với hàng con Phật, trí thức lẫn bình dân khắp năm châu, mà sau khi Ấn Độ thu hồi độc lập từ chính quyền Anh quốc vào năm 1947, ông Jawaharlal Nehru (1989-1964), vị thủ tướng Ấn đầu tiên đã chỉ thị cho nhà cầm quyền các tiểu bang nỗ lực trùng tu, sửa sang lại tất cả những thánh tích Phật giáo Ấn Độ.

Hiện nay, di tích các Phật tích còn lại trên đất Ấn rất nhiều, ngoài năm thánh tích danh tiếng: Ca Tỳ La Vệ, Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Lộc Uyển và Câu Thi Na; còn có bốn thánh tích quan trọng khác sau đây, đó là: thành Xá Vệ (Pali hay P: Savatthi; Sanskrit hay Skt.: Sravasti), nơi đức Phật đã thường trú 24 năm, và thuyết tại đây nhiều bộ kinh Đại Thừa quan trọng, trong đó có kinh A Di Đà, mà quý vị Phật tử thường tụng vào dịp lễ cầu siêu; thành Vương Xá (P: Rajagaha; Skt.: Rajagriha), nơi đức Phật đã thuyết kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu (tiếng Ấn: Gridhrakuta); Tỳ Xá Li (P: Vesali; Skt.:Vaisali), nơi đức Phật lần đầu tiên chấp nhận cho hàng nữ giới xuất gia; và Sankasya (P: Sankassa), ghi dấu nơi đức Phật đã từ cung trời Đao Lợi trở về trần thế, sau khi Ngài vận thần thông lên đó để thuyết giảng luận A Tỳ Đạt Ma (P:Abhidhamma; Skt.: Abhidharma) cho hoàng hậu Ma Gia (thân mẫu của Ngài) và chư thiên.

Ngoài 9 Phật tích trên, còn rất nhiều thánh tích khác như Nalanda, Kausambi v.v... là những nơi khi còn tại thế, đức Phật thường lui tới thuyết pháp cho dân chúng. Tất cả những Phật tích này, trong thời gian gần 12 năm du học tại Ấn Độ, chúng tôi may mắn có đầy đủ phước duyên, đã được đến chiêm bái, và tụng kinh cầu nguyện, nơi nào ít nhất cũng là 2 lần, nhiều thánh tích chúng tôi đến viếng thăm và lễ lạy tới 3 hay 5 lần.

Để giúp quý Phật tử hiểu biết qua, trước khi có duyên lành đến chiêm bái tại chỗ; mở đầu loạt bài viết về “Lược sử các Thánh Tích Phật giáo tại Ấn Độ”, chúng tôi xin giới thiệu trước hết, thánh tích Ca Tỳ La Vệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 5395)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5381)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4545)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5317)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5583)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 6921)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5134)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6228)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 7028)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
28/09/2020(Xem: 6741)
Dharamshala: Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ Tây Tạng, Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng lưu vong đã ra mắt cuốn sách do Hoà thượng Acharya Yeshi Phuntsok, Phó Chủ tịch Quốc hội Lưu vong Tây Tạng biên soạn với chủ đề “So sánh Hiến pháp của các Quốc gia Dân chủ Khác nhau” (Comparative Constitutions of Various Democratic Nations). Tác phẩm tập trung vào việc so sánh Hiếp pháp của các quốc gia dân chủ khách nhau trên thế giới, và giải thích các loại Hiếp pháp Dân chủ khác nhau một cách đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]