Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng nhớ Đức Phật

03/05/201102:20(Xem: 7384)
Tưởng nhớ Đức Phật
celestial-buddha-wat-rong
TƯỞNG NHỚ ĐỨC PHẬT
P. Gopakumar

Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bi và trí tuệ, Phật giáo giúp chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của những chấp thủ và đau khổ của con người, cũng như cung cấp cho nhân loại con đường đạt đến giải thoát khỏi những đau khổ.

Theo Phật giáo, con người là một thực thể cứu cánh, nhưng vốn bị ràng buộc, trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Cuộc sống con người là một biển khổ mênh mông, tất cả mọi người bất luận tôn giáo, chủng tộc hay địa vị xã hội đều không thể tránh khỏi đau khổ, đó là một sự thật không thể chối cải được.

Nguyên nhân của mọi đau khổ của con người là do Vô minh, Vô minh là nguồn gốc phát sinh mọi tham ái và chấp thủ. Nếu chuyển hóa được vô minh thành trí tuệ thì con người có thể đạt đến giải thoát khỏi mọi đau khổ trong cuộc đời. Sự chuyển hóa này hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua sự tu luyện tâm thức và giữ gìn giới luật.

Phật giáo tin rằng tất cả mọi người đều có thể đạt đến giải thoát giác ngộ, tức Niết Bàn, ngay trong đời này. Niết bàn không phải là lẫn tránh vòng sanh tử luân hồi mà là sự giải thoát của con người khỏi những chấp thủ của tâm. Niết bàn, nghĩa là một sự chấm dứt, nhưng không phải theo nghĩa chấm dứt sự sống, mà là chấm dứt hay giải thoát mọi khổ đau. Niết bàn trong Phật giáo là sự chấm dứt mọi tham ái và chấp thủ.

Đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử rằng, mục đích tối hậu của cuộc sống là giải thoát khỏi mọi vướng mắc ràng buộc của cuộc sống chứ không phải chấm dứt đời sống. Vì vậy, một người hướng đến Niết Bàn không có nghĩa là tìm cách thoát khỏi thế giới này, mà là hiểu rõ về sự thật của thế giới này, sống trong thế giới này mà không bị ràng buộc bởi những vướng mắc, chấp thủ. Giữa một người bình thường và một người đã giác ngộ không có sự khác nhau về mặt vật lý, mà chỉ có sự khác biệt về mặt tâm linh; người đã giác ngộ thì không còn bị trói buộc bởi những tham ái và chấp thủ trong cuộc sống.

Theo Phật giáo, một hành giả muốn đạt đến giải thoát giác ngộ, phải tuân giữ giới luật và thực hành theo giáo pháp; các giáo pháp đó là Từ Bi, Nghiệp báo, Đoạn tham, Đoạn dục, Đồng sự và Bất bạo động…, nếu hành giả thoát ly khỏi cộng đồng hay xã hội thì làm sao thực hiện được pháp môn từ bi hay đồng sự được.

Ngày nay thế giới bị ngăn cách bởi các ranh giới như tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, ngôn ngữ, giai cấp hay ý thức hệ. Thế giới của chúng ta có rất nhiều nguồn lực, chúng ta có rất nhiều đất đai, nhiều thực phẩm và nhiều tài nguyên khác để duy trì sự sống của chúng ta, nhưng chính vì lòng tham lam vô tận của con người mà tạo nên sự hận thù và chia rẽ ngày càng gia tăng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng: “Với hận diệt hận thù, Đời này không có được. Từ bi diệt hận thù, Là định luật ngàn thu”. Chính vì vậy, chúng ta phải biết chia sẽ và yêu thương nhau, thì mới có thể làm cho thế giới của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn.

Phật giáo cho rằng chỉ có nổ lực của chính mình mới có thể đạt đến giải thoát giác ngộ. Phật giáo bao dung tất cả sự khác biệt của mọi người về kinh nghiệm sống, bối cảnh văn hóa cũng như tín ngưỡng tôn giáo. Phật giáo là một tôn giáo của từ bi, hỷ xả và khoan dung, bình đẳng đối với tất cả mọi chúng sanh. Đạo Phật không tự rao giảng rằng, chỉ có Phật giáo mới là tôn giáo vượt trội hơn các tôn giáo khác, không phân biệt kỳ thị đối với bất kỳ ai cũng như bất kỳ tôn giáo nào, mà là bình đẳng đối với tất cả mọi người cho dù họ có tín ngưỡng khác với Phật giáo. Chính vì vậy, Phật giáo không bắt buộc ai phải cải đạo, đó là tính chất nhân bản của Phật giáo. Tất cả hữu tình chúng sanh đều được tôn trọng bình đẳng và đều có khả năng đạt đến giải thoát giác ngộ thành Phật. Và hãy nhớ rằng, trong cộng đồng thế giới có xu hướng ngày càng toàn cầu hóa này, tất cả chúng ta đều là những người mà cuối cùng phải gánh chịu những nghiệp quả xuất phát từ những hành động của chúng ta hôm nay.

Đạo Phật dạy chúng ta phải tu tập những hành vi, cử chỉ trong cuộc sống hàng ngày để đạt đến mục đích bất bạo động, từ bi và hợp tác. Đó là những bước căn bản nhất phải thực hiện, chứ không phải chỉ nói suông. Những kẻ chỉ biết kính cẩn tụng đọc kinh điển mà lơ là trong việc thực hành, tức là đã phản bội lại tinh thần chân chính của Phật giáo. Chư Phật trong quá khứ cũng đã thực hành hạnh từ bi cứu khổ và không ngừng cứu độ cho tất cả chúng sanh trong nhiều đời nhiều kiếp, và cuối cùng khi Công hạnh đã viên mãn, thành tựu quả vị Phật, đã thị hiện một Đức Hạnh cao quý như là thông điệp cho tất cả chúng ta.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi giác ngộ, đã đi khắp nơi thuyết pháp độ sanh trong suốt 49 năm, lưu lại cho chúng ta vô số kinh điển, thần chú và pháp môn tu tập. Ngài đã giáo hóa và làm gương cho nhiều vị vua quan, dân chúng từ già trẻ trai gái, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo hay giai cấp xã hội. Sự dấn thân hóa độ của Đức Phật đã thể hiện truyền thống nhân bản của Phật giáo, là tịnh hóa nhân tâm và thiết lập nhân gian tịnh độ. Hình ảnh Đức Phật là tấm gương sáng trong việc thực hành hạnh từ bi và hòa bình hợp tác.

Để nối theo gót chân Phật, trước hết chúng ta phải biết phát hiện và nuôi dưỡng Phật tính vốn có, cũng như phát khởi và nuôi dưỡng Bồ Đề tâm có sẳn trong mỗi chúng ta để mở toang cánh cửa giải thoát giác ngộ, giải thoát hết mọi khổ đau trong cuộc đời. Bằng sự phát hiện và nuôi dưỡng kho báu vô giá đó, chúng ta có thể giúp cho tất cả hữu tình chúng sanh khác phát hiện những đức tính vốn có sẳn trong họ như từ, bi, hỷ, xã, thanh tịnh, trang nghiêm và sự báo ân. Có nhiều phương pháp nhỏ có thể giúp ta khởi động quá trình đi tìm kho báu vô giá đó, chẳng hạn như phải biết tôn trọng sự sống của mình cũng như tất cả mọi loài, tôn trọng và bảo vệ môi trường tự nhiên, phải có thái độ biết ơn, đừng tham lam và biết tri túc…

Chúng ta cần phải xét lại những ứng phó xưa nay của chúng ta đối với sự mất trật tự và bạo hành; chúng ta thường có khuynh hướng dùng hình phạt đối với những người gây ra bạo hành, mất trật tự, để ngăn chận không cho nó trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, hình phạt chỉ đạt được những kết quả tạm thời mà thôi, chỉ có sự chuyển hóa, chuyển hóa bạo lực thành hòa hợp, đố kỵ thành tán thán, xan tham thành bố thí, bất tịnh thành thanh tịnh …mới có thể chấm dứt được bạo hành. Chúng ta không thể chỉ dựa vào những hình phạt một cách tiêu cực như thế mà phải thúc đẩy thực hiện quá trình chuyển hóa với thái độ tích cực, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, hơn nữa phải có tâm từ bi, hợp tác và công bằng, chân thành đối với tất cả chúng sanh.

Thích Chí Viên dịch
(Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quán)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2018(Xem: 13319)
Thông Báo Hành Hương Phật Tích Ấn Độ (2018)
29/04/2018(Xem: 11148)
Sông Hằng là con sông thiêng liêng nhất được tôn thờ như một nữ thần hoặc như là một bà mẹ truyền ban sức sống ở Ấn Độ và được xem là nguyên mẫu của tất cả dòng nước thiêng liêng trên thế giới. Từ những thời đại sớm nhất, dọc bờ sông đã có hàng triệu những người không thể đếm được đến đây để tắm, cầu nguyện, uống nước thánh và quăng tro người chết.
29/04/2018(Xem: 8341)
Sư Bà Hải Triều Âm sanh trưởng tại tỉnh Hà Đồng –Hà nội năm 1920. Sư bà là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình. Sư Bà cũng là một trong những vị sáng lập và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ. Qua một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp và quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng, được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Sư Bà xuất gia năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
29/04/2018(Xem: 7280)
Đức Phật dạy có nhiều cách bố thí khác nhau như: Pháp thí: bố thí Phật pháp ý nghĩa cao thượng giải thoát. Tài thí: bố thí tiền bạc. Vật thí: bố thí vật chất. Vô úy thí: bố thí sự không sợ hãi. Nhan thí: bố thí nụ cười. Ngôn thí: bố thí ái ngữ. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. Nhãn thí: bố thí ánh mắt yêu thương hiền từ. Thân thí: bố thí hành động nhân ái, thân thế. Phòng thí: bố thí phòng ốc chỗ ở giường nằm. Dược thí: bố thí thuốc….
29/04/2018(Xem: 6920)
Hải âu là tên một loài chim màu xám trắng xinh xắn sống ven sông biển. Khi mặt trời vừa mọc, tiếng sóng nước gợn lăn tăn hòa lẫn âm thanh kinh kệ ngâm nga vang rền từ các đền tháp, thì vô số chim trời hải âu từ đâu đó bắt đầu xuất hiện trên Sông Hằng, thành phố Ba-la-nại, để múa lượn mừng ngày nắng mới và dùng điểm tâm thực phẩm do các khách hành hương bố thí.
29/04/2018(Xem: 8461)
Bồ-đề-đạo-tràng, nơi nổi tiếng với Tháp Đại Giác – Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền giác ngộ, dọc bên bờ kia sông Ni-liên vào những ngày đầu mưa xuân, cuối đông tháng 12 cũng là mùa hoa cải vàng rực nở khắp cánh đồng.
29/04/2018(Xem: 7228)
Đệ tử của Đức Phật luôn gồm đủ bốn chúng xuất gia và tại gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Nam cư sĩ và Nữ cư sĩ. Mỗi chúng đều có vai trò quan trọng nhất định trong việc lợi mình, lợi người và duy hoằng Phật Pháp tại nhân gian. Việc hoằng Pháp lợi sanh nơi xứ người xưa nay phần chính là chư Tỳ kheo. Bên cạnh đócó nhiều Tỳ kheo ni và Nữ cư sĩ cũng đã đóng góp rất lớn. Nhiều tấm gương sáng của Nữ đệ tử Phật đã được ghi lại mà nữ giới hậu học ngày nay cần nên soi chiếu.
27/04/2018(Xem: 6215)
Ra Đi và Trở Về - Thích Tâm Tôn, Ra đi và trở về là hai mệnh đề rất rộng trong nhiều phạm trù của cuộc sống. Có thể hiều theo ý nghĩa chu kỳ hai chiều vận hành đến và đi hiện hữu trong phạm trù tuần hoàn thời gian, hay lẽ phân định khoảng cách gần- xa hai hướng trong phạm trù không gian hữu hạn, và có thể là lẽ tất nhiên phải trải qua của cả một đời người bởi hai điều sống- chết sẽ đi qua theo qui luật vô thường…. Nhưng có lẽ hơn hết, hiểu theo cách rất giản dị của nhà Thiền về ý nghĩa cuộc sống chính là tìm hiểu và thấy được của trải nghiệm, hay khám phá và Tuệ tri các pháp trong sự hiện hữu như chính là. Nếu ra đi là tìm kiếm, thì trở về chính là thấy được.
26/04/2018(Xem: 8229)
Khoảnh khắc Kangaroo bố đau đớn ôm người bạn đời đang hấp hối làm nhiều người xúc động khôn xiết. Giữa giây phút cận kề sự sống và cái chết, Kangaroo mẹ chỉ kịp nắm lấy tay con lần cuối trước khi từ giã cõi đời… Cái ôm ly biệt và đôi tay níu kéo
25/04/2018(Xem: 10754)
Tự Chuyện của Quảng Dũng về Gia Đình Phật tử ở Galang 1979
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]