Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật xưa và nay

11/04/201100:43(Xem: 17700)
Đạo Phật xưa và nay

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

Thích Hạnh Bình

Mục Lục

- Lời nói đầu
Phần I. Đạo Phật xưa và nay

Phần II. Đức Phật theo quan điểm của Thượng toạ bộ

Phần III. Đời sống người xuất gia dưới thời đức Phật còn tại thế

Phần IV. Niềm tin theo đạo Phật

Phần V. Ý nghĩa chữ ‘xả’ trong đạo Phật

Phần VI. Ý nghĩa pháp sám hối trong đạo Phật

Phần VII. Nói năng như chánh pháp

Lời nói đầu

Sau khi xuất bản tác phẩm “Tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy”, có một số người thắc mắc hỏi tại sao tôi là người xuất gia tu học theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, nhưng lại nghiên cứu Phật giáo Tiểu thừa (Nguyên thủy)? Trước nhất, xin xác nhận rằng, tôi xuất gia trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Tân (Chùa Thiền Lâm), pháp đệ của cố HT. Thích Đổng Minh. Thế nhưng điều đó không đồng nghĩa, tôi không được nghiên cứu Phật giáo Tiểu thừa. Đứng về mặt nghiên cứu, tìm hiểu lời Phật dạy, với tôi không có sự phân biệt Đại hay Tiểu, tất cả đều là Phật pháp, chẳng qua là ngang qua dòng thời gian và không gian,mỗi giai đoạn lịch sử có những yêu cầu khác nhau, có điểm đặc thù riêng của nó, vì để đáp ứng con người và thời đại đó, cho nên Phật giáo hình thành các hệ tư tưởng Tiểu thừa hay Đại thừa, tông pháikhác nhau. Sự dị biệt của các tông phái chỉ mang ý nghĩa, đứng từ một góc độ khác để lý giải vềgiáo pháp của Phật, vì mục đích thích ứng giải quết những vấn đề mà con người xã hội đó yêu cầu quan tâm, nhưng tinh thần giáo dục của Phật vẫn không khác. Điều đó biểu thị qua nội dung và hình thức trình bày của một bản kinh, luật hay luận, nó phản ảnh cách suy tưlý giải của con người trong xã hội đó. Như vậy ý nghĩa của những tác phẩm này luôn gắn liền với bối cảnh cụ thể của xã hội đó.

Hơn nữa, đề cập đến Phật giáo Ấn Độ là đề cập đến cả quá trình phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ, nghĩa là khi đạo Phật xuất hiện cho đến khi đạo Phật bị mai một ở Ấn Độ. Trong quá trình diễn biến đó, chúng ta không nên cắt xén, lấy một giai đoạn lịch sử nào hay một hình thái sinh hoạt nào, để rồi vội vã đi đến kết luận Phật giáo Ấn Độ phải như thế này, không phải như thế kia. Càng buồn cười hơn nữa, đôi khi chúng ta lấy một quan điểm nào đó không liên hệ gì đến Phật giáo Ấn Độ, lại tự cho rằng đó là lời Phật dạy. Theo tôi, muốn tìm hiểu Phật giáo Ấn Độ là gì, trước tiên chúng ta cần phải tìm hiểu toàn bộ quá trình phát triển tư tưởng của Phật giáo ở Ấn Độ. Nếu không như vậy sẽ rơi vào trường hợp ngộ nhận, thiếu khách quan.

Theo lịch sử phát triển tư tưởng của Phật giáo ở Ấn Độ, Phật giáo bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy, kế đến là Phật giáo Bộ phái và sau đó là Phật giáo Đại thừa, đó là ba giai đoạn Phật giáo mang tư tưởng khác nhau của Phật giáo Ấn Độ, nếu chúng ta không muốn nói, đôi khi có sự xung đột thậm chí phủ nhận lẫn nhau. Điều đó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, tư tưởng Phật giáo Ấn Độ phát triển theo quá trình từ trước đến sau, từ Phật giáo Nguyên thủy đến PhậtGiáo Đại thừa, hay nói một cách khác nó phát triển theo một qui luật của nó. Sự xuất hiện và hình thành tư tưởng nào trong xã hội là nhu cầu thực tế mang tính tất yếu, nhằm giải quyết nhu cầu cụ thể của xã hội đó, không phải là vấn đề mang tính thần thoại như chúng ta đã hiểu.

Trên thực tế, những diễn biến xã hội và sự suy tư của con người có mối quan hệ thiết thân. Sự đổi thay từ hoàn cảnh xã hội có ảnh hưởng đến cách suy tư của con người hay ngược lại. Cũng vậy, khi xã hội phát triển đổi thay, Phật giáo muốn tồn tại và phát triển cũng phải theo đó thay đổi hình thức sinh hoạt, ngay cả cách suy tư. Đây chính là nhân tố làm cho Phật giáo tự mình hình thành tư tưởng Tiểu thừa, Đại thừa, tông phái khác nhau. Điều chúng ta cần chú ý là, bất cứ giải pháp nào dù hay đến đâu, nó cũng chỉ có giá trị khi nó được gắn liền với sự kiện cụ thể của lịch sử, và sẽ trở nên vô nghĩa khi bối cảnh lịch sử của nó không còn nữa. Điều đó cho chúng ta nhận thức, mối quan hệ thiết thân giữa tư tưởng và bối cảnh lịch sử, không thể tách rời nhau, và sự hình thành giữa tư tưởng này với tư tưởng khác cũng có mối quan hệ sâu sắc và chằng chịt, thậm chí là quan hệ đối kháng. Từ đó chúng ta suy ra, sự xuất hiện tư tưởng của Phật giáo Đại thừa không thể tự nhiên mà có, nó phải bắt nguồn từ Phật giáo trước đó, là tư tưởng của Phật giáo Bộ phái, cụ thể là Hữu Bộ. Như vậy, nếu chúng ta muốn thấu rõ và xiển dương tư tưởng Phật giáo Đại thừa, điều trước tiên chúng ta cần phải hiểu rõ thế nào là tư tưởng của Phật giáo Bộ phái. Thử hỏi, nếu chúng ta không hiểu nguyên nhân tại sao xuất hiện tư tưởng Phật giáo Đại thừa, vì sao Phật giáo Đại thừa phản bác tư tưởng Tiểu thừa và phản đối điều gì; nếu chúng ta không đọc kinh sách Tiểu thừa thì bằng cách nào chúng ta hiểu được tư tưởng của Phật giáo Đại thừa? Cũng vậy, nếu muốn nắm rõ tư tưởng Phật giáo Bộ phái, chúng ta cũng không thể bỏ qua không tìm hiểu tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, tức là hai hệ kinh điển Nikāya và A-hàm (Āgama). Đây chính là lý do tại sao tác phẩm "Tìm hiểu đạo Phật Nguyên thủy” cũng như tác phẩm này ra đời. Thật ra, hai tác phẩm này chỉ là những tuyển tập của những bài viết ngắn, nhằm gợi ý và lý giải một số vấn đề tư tưởng trong Phật giáo Nguyên thủy. Nó sẽ là những cơ sở lý giải cho công việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ trong tương lai của tác giả.

Hy vọng phương pháp nghiên cứu này, giúp cho người làm công tác nghiên cứu Phật học phát hiện nhiều điều mới lạ thú vị hơn, trong sự nghiệp nghiên cứu Phật giáo ở Ấn Độ.

Tác phẩm “Đạo Phật xưa và nay” là tuyển tập với nhiều chủ đề khác nhau, là những chuyên đề nghiên cứu Phật học Ấn Độ, một số bài đã được đăng tải trên các website và một số tập san Phật giáo. Nội dung những bài viết này, tác giả căn cứ vào những kinh điển A-hàm và Nikàya để giới thiệu những quan niệm cơ bản về Phật học. Qua đó, nó cũng biểu hiện sự dị đồng giữa Phật giáo Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ hay Đại thừa và Tiểu thừa.

Phật giáo luôn luôn lấy con người làm đối tượng giáo dục, do đó giáo lý của đức Phật luôn luôn gắn liền với con người, những ưu tư của con người chính là ưu tư của đức Thế Tôn cách đây hơn 2500 năm. Tinh thần giáo dục của Ngài vẫn còn đó và có giá trị tuyệt đối, vượt lên trên cả về mặt thời gian và không gian.

Về mặt hình thức, Phật giáo ở Ấn Độ được phân chia Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng xét cho cùng trong hai hệ thống giáo lý của hai trường phái lớn này, không một bản kinh luật luận nào lại không đề cập đến yếu tố “Giác ngộ và giải thoát”. Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạc và hạnh phúc, tức là sự giải thoát. Đó là mục tiêu, là tinh thần cốt lõi của Phật giáo, nếu Phật giáo thiếu hai yếu tố này không còn là Phật giáo. Như vậy, trong Phật giáo có những hình thức Đại thừa hay Tiểu thừa, Thiền tông hay Tịnh độ tông… chỉ là hai hình thức giáo dục khác nhau cùng chỉ chung một điểm giác ngộ và giải thoát trong đạo Phật, do vì con người và xã hội không đồng cho nên Phật giáo phải vay mượn nhiều hình thức khác nhau để giáo hóa chúng sanh, nó không phải là sự mâu thuẫn trong giáo lý của Ngài.

Trong lần tái bản,tôi đã sửa lại đôi chỗ, nhưng cũng khó hoàn thiện, rất mong độc giả chỉ điểm. Xin chân thành tri ân.

Tác giả cẩn bút,

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2012(Xem: 4702)
“Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nở hoa cho cuộc sống’’đó là lý tưởng giải thoát, giác ngộ, thoát ly sanh tử, mà người Tu và mọi người Phật tử phải hướng đến và đạt cho được, để tự thân được an lạc hầu làm điều kiện căn bản xây dựng gia đình hạnh phúc, giúp xã hội được bình an, góp phần vào kiến tạo hoà bình cho thế giới, và Tinh độ nơi trần gian.
27/10/2012(Xem: 6043)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm.
26/10/2012(Xem: 3990)
Hỏi:Trong năm nay, giáo sư đã đi giảng dạy ở hai mươi sáu quốc gia. Xin giáo sư chia sẻ sự quan sát của mình về việc đạo Phật đang lan truyền đến những vùng đất mới ra sao. Đáp:Phật giáo đang lan truyền một cách nhanh chóng khắp thế giới hiện nay. Có những trung tâm Phật pháp ở nhiều quốc gia Âu châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Phi, Úc, Á châu và v.v… Chúng ta thấy có các Phật tử tại Âu châu, không chỉ ở những nước tư bản Tây phương, mà còn ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông phương nữa. Thí dụ như Ba Lan có khoảng năm nghìn Phật tử hoạt động tích cực. Đạo Phật rất có sức lôi cuốn đối với thế giới hiện đại, bởi vì nó hợp lý và dựa trên nền tảng khoa học. Đức Phật đã nói, “Đừng tin tưởng bất cứ điều gì ta nói chỉ vì lòng tôn kính đối với ta, mà hãy tự mình thử nghiệm nó, phân tích nó, giống như các con đang mua vàng.” Con người hiện đại ngày nay thích một sự tiếp cận không độc đoán như thế.
25/10/2012(Xem: 6319)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
25/10/2012(Xem: 6923)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
24/10/2012(Xem: 4707)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm. Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.
22/10/2012(Xem: 5474)
Sau khoá sám hối và toạ thiền buổi tối mùng 1 tháng 2 chùa Ba vàng trở nên tĩnh lặng. Bỗng xuất hiện một xe ô tô cấp cứu, trên xe là một chú bé có hình dạng mặt thật là ghê sợ, mặt chú lồi về phía trước như một quả bòng, 2 mắt cũng lồi lấm lét ở cuối đuôi mắt, gần 2 thái dương
21/10/2012(Xem: 4456)
Dường như người Nhật Bản rất thấm nhuần và áp dụng giáo lý đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày, cho nên họ quí trọng xem con người đều bình đẳng vì cùng có Phật tánh như nhau, chứ không dựa vào dáng vẻ giàu nghèo bên ngoài, thường xuyên làm chuyện phải có lợi ích cho người khác, cũng như không dám trộm cắp, hại người, để được nghiệp quả tốt. Chuyện thứ nhất: Trung thực
18/10/2012(Xem: 5379)
Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A–tu–la, người và trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567