Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng sóng hải triều âm đến từ bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm

08/04/201316:41(Xem: 8209)
Tiếng sóng hải triều âm đến từ bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm
Bo_Tat_Quan_The_Am_5

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Tìm Hiểu Các Vị Bồ Tát

Tiếng Sóng Hải Triều Âm Đến Từ Bảo Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm

Cư Sĩ Liên Hoa

Nguồn: Cư Sĩ Liên Hoa


Mấy ngày vừa qua, thành phố Houston- Texas, mưa thật nhiều. Không biết lượng nước mưa từ đâu đổ dồn về, có lúc kéo dài 21 ngày liên tục. nhiều vùng bị lụt, nhiều nơi bị những cơn giông làm sụp nhà cửa. Theo tin tức đã có 13 người chết.

Thời tiết xấu làm lòng mọi người chùng xuống, lo âu, sợ sệt. Biết bao nhiêu là biến động đổ ập đến con người. Nào thời tiết, nào chiến tranh, nào khủng bố v.v…cũng báo động đến một hiện thực là cuộc đời mang bản chất vô thường. Không một hiện tượng nào có thể tồn tại mãi với thời gian, theo lẽ thành trụ hoại không.

Nhưng ngày vừa qua, hôm thứ sáu 13.07.2007, có một tin tức vô cùng quan trọng, làm cho tâm mọi người tràn đầy hớn hở, vui mừng, ấm cúng. Đó là tờ báo địa phương Houston Chronicle loan tin Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm tại Trung Tâm Phật Giáo Chùa Việt Nam đuợc chọn là 1 trong 7 kỳ quan của thành phố Houston, Texas.

Đây là một tin vô cùng chấn động như sau bao nhiêu ngày mưa gió, ánh mặt trời xuất hiện trên bầu trời, soi sáng rực rỡ, xoá tan màu u ám. Đây là niềm hãnh diện to lớn đối với Cộng Đồng người Việt Nam tại Houston cũng như ở mọi nơi- nói chung, và của chư Tăng Ni Chùa Việt Nam cùng tất cả những người con Phật, nói riêng.

Như tất cả mọi người, tôi chạy vội đến chùa Việt Nam, đứng im lặng trước Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, chấp tay, chiêm ngưỡng. Cũng là của Tượng Ngài mà bao nhiêu năm tháng qua, khi đến Chùa, tôi đã gặp, nhìn và luôn tỏ lòng thán phục trước kỳ công kiến tạo nầy.

Đây phải là tâm nguyện cao đẹp do lòng từ của một con người có ý nghĩ độc đáo, của chư Tăng Ni tại Chùa- muốn có một Tôn Tượng Bồ tát Quán Thế Âm lộ thiên to lớn, cho mọi người chiêm ngưỡng; đã kết hợp cùng một cô gái tên là Mai Chi- với tấm lòng xuất trần, tâm thành thanh tịnh, thương yêu bóng dáng và công hạnh từ bi, và cùng những người con Phật với biết bao nhiêu ước nguyện, mong mỏi- đã tạo và hình thành nên pho Tượng hùng vĩ, thánh thiện, từ bi nầy. Đó là Bảo tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Tượng Bồ tát Quán Thế Âm được tạc bằng đá màu trắng bạch, cao 72 feet. Dáng thẳng đứng, thanh thoát. Gương mặt đẹp dịu hiền, nét đẹp chứa đựng cả một cõi lòng, một bầu trời bao la của từ bi, hỷ xả. Tay cầm bình tịnh thủy, tay với nhành dương liểu.

Màu trắng là màu của " Bạch Tịnh Thức" là tổng hợp hay do 7 màu sắc khác nhau hợp thành. Mỗi màu là mỗi sắc thái biến dị của tâm, nhưng được dung chứa trong thức Bạch Tịnh hay thức A Lại gia. Tượng vươn cao trên bầu trời như ý nghĩa vươn mình trên tất cả mọi uế nhiễm, năm trược của cuộc đời để tế độ, ban vui cứu khổ- cho đời như tấm lòng của bà mẹ "nhược mẩu ức tử " thương yêu đứa con duy nhất . Đây quả là một kỳ công hy hữu, nhiều ý nghĩa và khó tưởng tượng có thể thực hiện được, nhưng nay, hiện đứng hùng vĩ trước sân Chùa Việt Nam.

Trước Tôn Tượng của Ngài, trong lòng tôi làm sao ấy. Tượng bỗng trở nên to lớn, phi thường và có một giá trị vô cùng mầu nhiệm, đối với riêng tôi- một người Phật tử Việt Nam tầm thường, cùng với tất cả những người con Phật khác.



"Bồ tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Avalokiteshvara Boddhisattva. Quán là quán tưởng, có nghĩa là xét thấy bằng tư tưởng và trong tư tưởng, tức Trí năng quán. Thế là thế gian, tức Cảnh sở quán. Âm là tiếng hay âm thanh.

Quán Thế Âm có nghĩa là xét thấy, xét nghe tiếng của thế gian đau khổ, lo sợ, bởi vì tất cả chúng sanh đều có hoặc nghiệp nên mới hoà hợp với nhau mà hiện ra các khổ tướng báo thân. Cho nên, Quán Thế âm cũng có nghĩa là Trí năng quán, tiêu biểu cho Đại bi Đại từ của Đức Phật, tức Tâm. Mà tâm thời ai cũng có, vì thế, Đức ấy có thể hiện trong bất luận chúng sinh nào, từ cõi trời xuống đến cõi người, A-tu-la v.v…để độ thoát chúng sinh trong ba nẻo, sáu đuờng…" ( 1 )

Theo Kinh, thì "Bồ tát Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô lượng kiếp xa xưa, hiệu là Như Lai Chánh Pháp Minh, nhưng vì đại nguyện độ sinh nên ứng hoá thân để cứu độ.

Có một số ghi nhận rằng Bồ Tát Quán Thế Âm có thể loại trừ Thất nạn ( bảy nạn) như: lửa, nước, La sát, đánh chém, ngạ quỷ, gông cùm và oán thù. Hoặc Nhị cấu ( hai sự cầu xin): cầu có con trai hoặc con gái. Hoặc Tam thập Nhị Ứng tức 32 ứng thân để độ chúng sinh." ( 2) như trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn đã nói.

Nhưng cần nhấn mạnh rằng, Bồ Tát Quán Thế Âm là biểu tượng của Đức Tánh Đại Từ Đại Bi của Phật, cho nên ứng hoá thân của Ngài không chỉ có chừng đó, mà là thiên hình vạn trạng, trăm ngàn vạn ức hoá thân, tùy theo khổ nạn của chúng sanh cầu nguyện, tưởng nhớ đến mà hiện thân độ thoát. Vì chúng sanh còn bị vô minh nên chiêu cảm nghiệp lực, khổ đau, lăn chuyển trong sáu nẻo trầm luân, biến thành tâm khổ nạn biến hình thay dạng vô biên, thì ứng hoá thân của Bồ Tát cũng vô cùng vô tận để tùy duyên, tương ứng, khiến giải thoát cho khỏi tâm niệm khổ đau.

Muốn tìm hiểu sâu hơn ý nguyện, tâm nguyện và hoài bảo của vị Thượng Toạ Trụ trì Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam cùng chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử qua việc kiến tạo Bảo Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nầy, chúng ta cũng cần đào xới và khái quát qua chút ít tư liệu về Lịch sử Phật giáo tại Hoa kỳ.



Đạo Phật hiển nhiên đã và đang thấm nhuần và mở ra một chân trời mới trong bản tâm của người dân bản xứ Hoa kỳ, vì họ nhận thấy rằng Đạo Phật là một tôn giáo kỳ diệu, khoan dung và hoà bình.

Trong lịch sử truyền bá Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, đạo Phật đi đến đâu đều hoà đồng, xan sẻ và đối thoại, sống chung với những nguồn văn hoá tâm linh của các quốc gia đó và chưa bao giờ là nhân tố để gây nên tranh chấp, hận thù, chiến tranh.

Đã bao lần Phật giáo bị lâm vào Pháp nạn do những thế lực vũ quyền, do những tư tưởng tôn giáo cuồng tín, kỳ thị… đàn áp, tàn sát, giết hại mạng sống, đập phá những tự viện tu hành, hũy diệt kinh sách v.v…nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ Phật giáo mang lòng hận thù để đối đáp, trả oán…mà chỉ chịu đựng để bị giết hại, bị đánh đập hoặc tìm cách lánh nạn đi nơi khác. Phật giáo chịu đựng, bất bạo động để rồi toả ngời sáng, lan rộng khắp năm châu bằng sự khoan dung, tha thứ, cầu xin hồi hướng đến kẻ gây khổ đau cho mình. Phật giáo im lặng để vượt lên trên cao, đem mắt trí tuệ sáng soi, đem lòng từ báo đáp, thương cho những kẻ vô minh.

Văng vẳng đâu đây, lời của Ngài Lão tăng Thái Hư:" Phồn hoa ngã bất hoài vinh nhục" hay như tiếng nói của Phật giáo Việt Nam năm nào trước họng súng đạn, trước hận thù, bạo động v.v..đã nói rằng:" Chúng tôi nguyện đem xương máu để trang trải cho Đạo Pháp và Dân tộc và nếu có chết thì chết như một chân lý trước bạo lực, chứ không phải bạo lực nầy kém bạo lực khác".

Vâng, chỉ như cái chết của một chân lý trước bạo lực, bởi vì tấm lòng của những người theo đạo Phật là cõi lòng của Hỷ Xã Từ Bi, trong sáng và không hận thù, không bạo động.

Đạo Phật coi trọng con người vì từ con người, mọi hướng đi về các cõi, các nẻo thành hình, như kinh Hoa Nghiêm " tâm người như người như người hoạ sĩ, có thể vẽ nên mọi cảnh đời" . Đau khổ, hay Hạnh phúc đều do chính con người là chủ nhân sáng tạo.

Giới sát sanh của đạo Phật coi trọng mạng sống của các loài từ mạng sống của những sinh vật nhỏ bé như: trùng dế… chí đến như các loài súc sanh lớn hơn như: chó mèo heo trâu bò v.v…huống hố là mạng sống cao quí của con người.

Cho nên, đến với Đạo Phật là đến nơi vườn tâm êm ái, không hận thù, không oán ghét và thuần hương vị hoà bình, giải thoát, vì nổi đau của muôn loài cũng là nổi đau của những người mang hạnh nguyện đem lợi ích, an vui cho người, muôn vật, thiên nhiên. Chưa có một vị Giáo chủ nào trên thế gian nầy dám nói:

" Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành"

Giá trị con người đã được đạo Phật đưa lên ngang hàng với Đức Phật, nếu chuyển đổi tâm chấp trước, tâm vô minh….để trở nên vị Tỉnh thức- một con người Nhân bản đích thực. Cho nên, Đạo Phật có đầy lương dược cung cấp cho con người nguồn sống tâm linh vi diệu, sáng tạo và Hạnh phúc.

Chúng tôi nghĩ đây cũng chính là đại nguyện và hoài bảo của chư Tăng Ni và Phật tử Chùa Việt Nam muốn thể hiện qua việc tạc tác bức Tượng Bồ tát Quán thế Âm, vì Ngài biểu hiện cho tấm lòng Từ bi và Trí tuệ đó và cũng đã được chánh quyền của Thành phố Houston công nhận như 1 trong 7 kỳ quan của Thành phố.

Có nhiều công trình to lớn, đồ sộ khác v.v…đã không được chọn, lại chọn Bảo Tượng nầy như một kỳ quan- chính vì Phật giáo là biểu tượng của Tôn giáo Hoà bình, phóng khoáng, An lạc, Tình Yêu thương đích thực qua những gội rửa tâm, không còn tạp nhiễm.

Ghi lại những lời tâm thành nầy, như tấm lòng kính cám ơn chư Tôn Đức Tăng Ni cùng toàn thể người con Phật tại Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam, đã cống hiến cho thành phố Houston nói riêng và đất nước Hoa kỳ nói chung, một biểu tượng đầy ý nghiã cao đẹp nầy.

Nhân đây, chúng con cũng có đôi lời kính lên chư vị Tôn Đức Tăng Ni ở mọi nơi.

Do những nghiệt ngã của Lịch sử Dân tộc, làn sóng người Việt Nam đã có mặt tại Hoa kỳ cũng như nhiều quốc gia khác, hơn 30 năm qua. Tại Mỹ, có một Cộng đồng Việt Nam quá trẻ so với những Cộng Đồng các sắc dân khác, nhưng do những cố gắng, cần cù, chăm chỉ làm việc, nuôi dạy con cái v.v…đời sống mọi người đều dần dà đi vào ổn định và từ đó, hướng tâm đến đời sống tâm linh, tôn giáo vì đời sống con người không chỉ có vật chất như cơm ăn, áo mặc. Chúng ta ra đi đem cả núi sông, đem cả văn hoá, tiếng nói, sắc thái đặc thù và cả nền văn hoá tâm linh của đạo Phật Việt Nam đến đất nước mới nầy.

Nguồn sống tâm linh và mạng mạch của Phật giáo do nơi chư Tôn Đức duy trì và truyền bá và đời sống mọi người khi đã an cư lạc nghiệp đều hướng đến. Đạo Phật sẽ làm gì và tất cả mọi người con Phật sẽ làm gì để nguồn sống tâm linh nầy luôn luôn chan hoà trong tâm thức của người Việt Nam, người bản xứ và các thế hệ mai sau ?

Chúng ta có rất nhiều những vị Tôn Đức, những vị « vô trụ bất thủ, sứ mệnh độ sanh », những nhà trí thức Phật giáo, những vị Tăng Ni tài đức, những Phật tử tâm huyết v.v…cũng đồng thời có nhiều khoá tu đã được tổ chức khắp mọi nơi, nhiều khoá giảng pháp, nhiều cuộc hội họp v.v…bàn đến hướng đi của Phật giáo trong hiện tại và tương lai. Thật là cao quý ! Thật là hạnh phúc lắm thay!

Tại Chùa Việt Nam ở Houston đã làm được Lễ Hội Quán Âm hay Văn hoá Dân gian Việt Nam thành truyền thống mỗi năn, để làm sống lại những bản sắc của làng xã Việt Nam trên xứ sở mới. Chúng con nghĩ rằng tất cả tâm huyết của chư Ngài cũng đều mong mỏi Phật giáo được trường tôn, phổ biến và mọi người đều được thấm nhuần để cuộc sống có an lạc, hoà bình.

Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ và Từ bi, Giải thoát và tất cả Đức Tánh Giác ngộ nầy cũng đều có trong tâm mọi loài. Nhưng làm sao để hạt giống Phật trong tâm mọi người được nẩy nở và trở thành nếp sống thường nhật. Chúng ta không phải chỉ đến Chùa mới tu, vì nghĩ rằng ở đó có Thầy Tổ, có tăng thân, có giáo pháp v.v…và sau đó, khi về nhà lại không mang theo được lợi lạc gì cho chính mình, huông hồ là người thân chung quanh, vì đã bỏ lại các Đức Tánh cho Chùa. Đức tánh hay hạt giống Phật trong tâm mọi người cần phải được tưới tẩm hàng ngày bằng những việc làm thường nhật, bằng hơi thở, bằng quán chiếu trong tất cả mọi hoàn cảnh, thì mới trở thành nếp sống văn hoá tâm linh.

Nếp sống văn hoá tâm linh phải thể hiện ở mọi nơi chốn, chứ không phải ở một chỗ nào nhất định. Cho nên, làm sao để Đạo Phật trở thành nếp sống, chứ không phải chỉ thuần túy là tôn giáo. Vì xem Đạo Phật là tôn giáo, chúng ta có thể chỉ có cầu nguyện, hướng mình, phóng tâm …- dù là cả tâm thành hay không- để đến một đích nào đó, nhưng…có thể bước chân đang bay hơi cao.

Đức Phật là một thể tánh thanh tịnh, sáng suốt có trong tâm của tất cả mọi người. Đó là một Thể Tánh Phổ quát, Tánh Giác mà mọi người cần tự khai phá, phát triển v.v…Cho nên, nếu chuyển được Đạo Phật trở thành nếp sống tâm linh, chúng ta có thể thấy, tiếp cận và sống với đạo Phật, với Tánh Giác trong từng sát, từng ngày, từng tháng v.v…trong bất cứ nơi chốn, xã hội hay quốc độ nào và sẽ không bao giờ có thể bỏ đạo được, vì đó là nếp sống, là tủy của cuộc đời. Đây cũng là chất liệu tâm linh cao quý của hôm nay và ngày mai mà có phải Thầy Tổ, chư Tôn Đức trao truyền và mong muốn sinh khởi, phổ biến và để truyền đi cho các thế hệ sau, không bao giờ bị mất như :.

« Mái chùa mới che chở hồn dân tộc
nếp sống muôn đời của tổ tông »

Huyền Không

Vẫn biết rằng « thế giới không hoa, thân như bào ảnh » hay « thịnh suy như giọt sương rơi đầu cành » (3), vẫn biết rằng vũ trụ vốn vô thường. Tất cả mọi hiện tượng dù hữu hay vô tướng đều theo luật sanh diệt, duyên sanh ; nhưng cho dù thời gian có thay đổi như thế nào, dù hoàn cảnh có biến thiên, nhưng một khi hạt giồng thiện đã gieo, chắc chắn sẽ nẩy mầm, sinh trưởng.

Với tất cả tâm huyết, hoài bảo của chư Tôn Đức đã rung tích trượng, đánh trống pháp tại đất nước mới nầy, kính mong rằng Phật giáo nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, sẽ là nguồn sống tâm linh đóng góp, đối thoại, chia sẻ và đem lại ích lợi to lớn- mà trong đó mọi người, mọi loài - đều được sống trong An lạc và Hạnh phúc Chân thật.

Với tất cả lòng thành, kinh mong lắm thay.!

Ngày 19.07.2007






1- Tiểu luân Liên Hoa bộ hay Đại bi quán thế Âm của Cư sĩ Liên Hoa.

2- Pháp Hoa huyền Nghĩa- Chánh Trí Mai Thọ Truyền.

3- Lịch sử Phật giáo tại Hoa kỳ- Thầy Thích Nguyên Tạng biên soạn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4932)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5062)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4428)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4088)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4683)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4148)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3593)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6866)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6948)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]