Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Khảo Áo Hậu Trong Tăng Phục Phật Giáo Bắc Truyền

31/01/201107:37(Xem: 7482)
Lược Khảo Áo Hậu Trong Tăng Phục Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC KHẢO ÁO HẬU
TRONG TĂNG PHỤC PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

TăngGià Đạo Phật với “Tam Y Nhất Bát” hoằng hóa muôn phương, từ hơn 2000 năm trước cho đến ngày nay không nơi nào trên thế giới mà không có dấu vết hoằng pháp của Tăng già. Bắc truyền hay Nam truyền Phật Giáo cũng cùng chung một tâm nguyện “Thượng hoằng hạ hóa” tuy nói là Nam Bắc bởi do phương hướng và địa vực, cộng thêm vài điểm không tương đồng và một chút dị biệt do theo hoàn cảnh, địa lý, phong tục tập quán, lễ chế của từng vùng miền địa phương ảnh hưởng tạo thành.

Cónhững phương pháp Bắc truyền Phật Giáo cần phải có để thuận duyên trongviệc truyền giáo thì đối với Nam truyền Phật Giáo không có pháp đó cũngcó thể hoằng pháp được, vì vậy cho nên không thấy pháp ấy trong Phật Giáo Nam Truyền và ngược lại cũng vậy. Nên sự khác biệt này có tính cáchchủ quan trong quan niệm “Tùy Duyên” của Đạo phật và chỉ làm đẹp thêm cho Phật Giáo chứ không có một mảy may nào làm ảnh hưởng đến Đạo Lý của Phật Gia.

Nói đến Bắc Truyền Phật Giáo là đàn hậu tấn chúng ta không thể không phủ phục năm vóc sát đất đảnh lễ Đấng Điều Ngự Thế Tôn và chư liệt vị Tây Thiên, Đông Độ, Việt Nam truyền giáo, truyền giới, khai tông lập giáo, khai sơn tạo tự lịch đại Tổ Sư. Trong Kinh [Diệu Pháp Liên Hoa]dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.”

Chúng ta là người sinh ra trong đời mạt pháp, Tổ Thật Hiền trong [Phát Bồ Đề Tâm Văn]nói: “tội gì mà sanh vào thời mạt pháp, phước gì mà được dự vào hàng xuất gia, chướng duyên gì mà ra đời không thấy Kim Thân của Đức Phật, hạnh lành gì mà ngày nay được lễ Xá Lợi Phật.” những gì chúng ta có đượcnhư hôm nay, phải chăng đều do công lao của chư liệt vị Tổ Sư Tiền Bối.

Đối với sự nghiệp hoằng pháp của Phật Giáo Bắc truyền mà nói, khi các vị truyền giáo Cao Tăng đem Phật Giáo đến với Đông Phương mà đại diện là Trung Quốc hết sức khó khăn, nói về phương diện văn hóa thì Ấn Độ và Trung Quốc đều là hai cái nôi văn hóa của thế giới, văn minh, văn hóa, triết học, nghệ thuật, đều có thể nói là tương đương nhau. Về phương diện Tôn Giáo khi Đạo Phật chưa truyền vào Trung Quốc thì Đạo Giáo là tôn giáo của người Trung Quốc đã có cả gần 1000 năm lưu truyền, cộng thêm học thuyết của Nho Gia và cả trăm họcthuyết khác.

Để chinh phục cũng như hòa mình vào tôn giáo tín ngưỡng của dân bản địa và thuyết phục tất cả những học thuyết truyền thống của người Trung Quốc, đưa Phật Giáo hòa nhập đến được với người bản địa và từng bước nâng vị thế của Phật Giáo lên địa vị ngang bằng nhiều khi còn cao hơn các Tôn Giáo, tín ngưỡng và các học thuyết của Trung Quốc. Chư Liệt Tổ không thể không tính đến những điều kiện sẵncó để hòa mình vào sự chi phối của chính quyền, Tôn Giáo sở tại, dùng những tập tục, tín ngưỡng của địa phương lồng vào Phật Giáo để truyền đạo. Vay mượn các học thuyết đương thời để diễn nói giáo nghĩa của Phật Đà. Chính vì vậy mà Phật Giáo Bắc Truyền có phần phong phú về nội dung và hình thức hơn Phật Giáo Nam Truyền.

Nói đến Tăng phục Phật Giáo trước tiên chúng ta nên tìm hiểu về những lý do căn bản, ý nghĩa thậm thâm của Tăngphục. Trong Kinh [Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa]chép: “Vì cũng như thế gian, cho nên có ba y. Vì sao vậy? tâm vui biết đủ, cho nênkhông đa cầu, tức là ít muốn. Không cầu xin, cho nên không chứa đựng; không chứa đựng, cho nên không bị thất mất; không thất mất, cho nên không phải bị sầu khổ; không gì sầu khổ, thế nên xa lìa phiền não; lìa phiền não, cho nên không còn chấp trước; không còn chổ chấp trước, cho nên đã lậu tận.”. Trong [Hành Sự Sao]chép mười điều lợi ích của ba y:

1/ Ngoài ba y ra không tham cầu cho nên không thọ khổ.

2/ Không bị khổ đau ràng buột.

3/ Không chứa nhiều đồ.

4/ Chỉ đủ dùng cho chính mình.

5/ Hành trì giới cẩn thận.

6/ Đến đi không vướng mắc.

7/ Thân thể nhẹ nhàng.

8/ Tùy xứ tùy nơi đều có thể an trụ.

9/ Đến hay đi chổ nào cũng không có gì lưu luyến.

10/ Tùy thuận để hành đạo.

Những ý nghĩa lợi ích của Tăng phục PhậtGiáo, là nói về phương tiện ích lợi trong việc tu hành của Tăng Già, chứ Phật không có ý dạy tu hành phải khổ hạnh như một số người học Phật thường nghĩ.

Đức Phật trước khi thành đạo dã từng có sáu năm tu khổ hạnh, và Ngài chưa từng cho rằng khổ hạnh là pháp tu duy nhất để có thể thành đạo. Đức Thế Tôn thành Đạo Bồ Đề sau khi Ngài quyếtđịnh không tu khổ hạnh nữa. Đời sống của Tăng lữ chỉ cần đơn sơ đạm bạclà đủ, trọng tâm vấn đề là làm thế nào để đoạn trừ với dục vọng và phiền não của thế gian, thân tâm luôn hướng về vô thượng giải thoát Bồ Đề.

Một hành giả học Phật, nếu như quá độ đènén những nhu cầu thiết yếu về cuộc sống, làm cho thân tâm sinh ra những trạng thái không ổn định về tinh thần cũng như thể chất, cho nên khả năng đạt đến trạng thái an lạc giải thoát là điều không thể được, màcòn làm trái đi mục đích của sự tu hành. Trong Kinh [Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm]quyển 14 chép:

“Bỏ đi đồ thế tục, nguyện cho chúng sanh, cần tu thiện căn, bỏ các tội ách. Cạo bỏ râu tóc, nguyện cho chúngsanh, vĩnh ly phiền não, cứu cánh tịch diệt. Mặc áo Cà Sa, nguyện cho chúng sanh, tâm không chổ nhiễm, đều đắc Phật đạo.” Tất cả đoạn kinh trên nói về người đi xuất gia, như mục đích của việc đi xuất gia, mặc Tăng phục, cạo bỏ râu tóc cho đến đắp y đều có ý nghĩa hết sức rõ ràng, cho nên có cần tu khổ hạnh hay không đối với giải thoát giác ngộ đều không quá quan trọng.

Trong Kinh [Trung A Hàm]Phật dạy: “Ta nói không được cất chứa tất cả y, rồi cũng nói được cất chứa tất cả y, thế nào là y mà ta nói không được cất giữ ? nếu giữ y mà tăng trưởng ác pháp hoặc bất thiện pháp, hay làm suy thoái thiện pháp, nếu là y như vậy thì Ta nói không được cất giữ.

Y như thế nào mà ta nói được cất giữ? nếu như giữ y làm tăng trưởng thiện pháp, làm suy thoái ác bất thiện pháp, nếu là y như vậy, Ta nói được phép giữ.”. như vậy là rõ ràng Đức Phật cũng chỉ chú trọng vào việc làm thế nào để thoát khỏi phiền não đạtđến thiện pháp, còn là y gì chỉ là phương tiện thôi, cho nên “Độ thân cho nên có y, cất giữ biết đủ là vậy”.

Phật Giáo khi truyền đến Đông Phương, như đã lược nói từ những hoàn cảnh địa vực, khí hậu, tập tục, lễ giáo, truyền thống văn hóa cho đến tín ngưỡng đều không đồng, cho nên nảy sinhmột số vấn đề hiện thực mà Phật Giáo nếu muốn truyền Đạo tại Đông Phương cần phải thực hiện, chính vì thế mà một loạt giải pháp được các vị truyền giáo cao Tăng Ấn Độ cũng như Đông Độ đứng trên tinh thần “Tùy Duyên Bất Biến” của Đạo Phật, hoặc chế ra phép mới, hoặc vay mượn những gì đã có, hoặc dung hợp các pháp của Đạo Giáo hoặc Nho Gia để diễn bày Diệu Pháp, hoặc dùng luôn những gì của thế gian đã có chuyển hóa thành “Phật Gia Phong Phạm”. Áo Hậu của Phật Giáo được hình thành trên phương thức này.

a1

Việt Nam gọi áo tràng tay rộng của chư Tăng là Áo Hậu, vì có nghĩa là áo mặc ở trong rồi mới đắp Y bên ngoài. Thật ra áo Hậu của Tăng già Bắc Truyền có nguồn gốc từ “Tăng Kỳ Chi”của Tăng Y. Trong [Thích Thị Yếu Lãm]chép: “các vị Tăng xưa theo Luật chế, chỉ có Tăng Kỳ Chi (đây gọi áo che tay, còn gọi áo che nách), áo này dài che từ vai bên trái cho đến nách bên phải, nên thường gọi là áo trong của tam y vậy, đây là nghĩa của Thiên Trúc vậy. Trong [Ngụy Lục]ngài Trúc Đạo Tổ nói rằng: “Người trong Cung Ngụy thấy Tăng để trần một cánh tay vào cungcho như vậy là không được hay, bèn chế thêm Thiên Đãn” may phía trên của Tăng Kỳ Chi, từ đây có áo Thiên Sam trong Tăng phục. Nay áo có cổ cao che đến gáy là được chế từ thời Ngụy vậy.”

Ngài Đạo Tuyên Luật Sư trong [Chương Phục Nghi]nói: “Đức Đại Thánh gốc chỉ chế có ba y, ở p Tây Vực cũng có y này, ngoài ra không còn y nào khác, cho nên gọi là ba y vậy. Sau có áo Phú Kiên và Tăng Kỳ Chi vậy…

Nay Tăng phục có áo dài từ trên vai xuống gót là sự kết hợp của các y này vậy.” Trong [Trụ Pháp Đồ Tán]chép: “Hình thức của Tăng phục ngày nay có tay rộng, là sự kết hợp của áo Phú Kiên và áo Tăng Kỳ Chi thành áo Thiên Sam. Áo Thiên Sam nối với quần thành áo Trực Chuyết.” và sự ra đời của áo Trực Chuyết trong [Truyền Thông Ký Nhữu Sao]chép: “Đời Đường Ngài Huệ Hải Đại Trí Thiền sư ở núi Bách Trượng là Người đầu tiên nối áo và quần thành áo dài gọi là áo Trực Chuyết” Ngày nay áo Trực Chuyết vẫn còn được Chư Tăng Nhật Bản và Hàn Quốc sử dụng. Chư Tăng Trung Quốc và Việt Nam mặc áo Hậu có nguồn gốc từ áo Trực Chuyết và áo hậu có bảy vạt là chứng tích còn lại của áo Trực Chuyết về sự kết nối giữa áo và quần.

Áo hậu ngày nay là sự kết hợp giữa áo Trực Chuyết và áo Bào truyền thống của Trung Quốc, nguyên nhân của sự kết hợp giữa Tăng Bào và áo Bào truyền thống Trung Quốc. Theo lễ chế Phong Kiến Trung Quốc trong sách [Biện Phục]chép: “Sĩ Đại Phu không được tiếp khách khi không mặc áo Bào, khi ra đường phải mặc áo bào”, đến nhà Hậu Hán lập quốc quy định áo Bào thành Triều Phục.

Chính nguyên nhân này mà Tăng Y trở thành lễ phục của Tăng Già Bắc Truyền do việc thường ra vào Hoàng Cung để Thuyết Pháp của chư Tăng. Nên việc tu chỉnh áo Trực Chuyết cho đúng phép của lễ phục là điều hết sức tự nhiên và cần thiết. Trong [Thích Danh]chép: “Thiền Y không phải áo của người Hồ có tay nhỏ và chật, dài như hình mương nước”.

Do áo hậu có hai tay áo rất rộng nên còn được gọi là áo “Hải Thanh”. Trong [Bỉ Ngôn]chép: “người Ngô gọi áo có tay dài rộng là Hải Thanh.” Và danh từ Hải Thanh có từ đời Đường trong một câu thơ của nhà thơ Lý Bạch “ múa vùn vụt bay tay áo rộng, như chim từ đông hải bay đến.” trong thơ nói đến con chim từ “Hải Đông” bay đến là chim Hải Đông Thanh.

Đời Đường tất cả các lễ phục từ triều đình đến thứ dân đều có tay áo rất rộng, do sự biến thiên của triều đại lịch sử và sự thay đổi quan niệm về phục trang của từng thời đại cho nênáo tay rộng dần dần không còn là lễ phục của người Trung Quốc nữa vì không còn được ai mặc. Duy chỉ còn Tăng Già Bắc Truyền còn mặc cho nên trở thành lễ phục trong Tăng phục Phật Giáo Bắc Truyền và lưu truyền chođến ngày nay.

Ngài Đạo Tuyên Luật Sư trong [Cảm Thông Truyện]dạy: “Người thế lấy áo mão cân đai làm điều hiển vinh, Đạo nhân chỉ có áo mão chứ không cần cân đai. Người đời lấy việc búi tóc cài trâm là đẹp, người họ Thích thì cạo bỏ râu tóc chẳng cần.”. Qua đó có thể thấy tinh thần “Tùy Duyên”được dùng vô cùng rộng lớn không những trong sự nghiệp hoằng Pháp mà còn được vận dụng ngay trong cả cuộc sống thường nhật của Tăng Già.

Ngay cả trong việc chế y phục, áo Trực Chuyết hay áo hậu sau này đều không có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng là sự kết hợp giữa đạo lý Tăng phục Phật Giáo và lễ phục của người Trung Quốc,nhưng vì không muốn hoàn toàn là lễ phục Trung Quốc các Tổ vẫn tìm cáchchế những đặc trưng của Phật Giáo vào áo Bào, để áo bào của người TrungQuốc thành Tăng Bào của Phật Giáo, đặc tính này được thể hiện rõ nhất ởcổ áo Hải Thanh, chúng ta thường thấy cổ áo Hải Thanh có đắp thêm ba lớp vải, biểu thị ý nghĩa Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cho nên gọi là cổ áo “Tam Bảo Lĩnh”phần cuối cổ áo có may 52 đường chỉ nhỏ tượng trưng cho “Thiện Tài Đồng Tử Ngũ Thập Tam Tham”.

Chỉ là cổ áo của Tăng thôi mà đã bao hàmbao nhiêu là ý nghĩa, thử hỏi làm sao khi người mặc chiếc áo này mà không khác người đời chứ, cho nên “Chiếc áo không làm nên một vị Tăng, nhưng khi nhìn người mặc áo họ có thể nhận biết người ấy là Tăng sĩ của nhà Phật.”.

Ngày nay cổ áo Hậu của Phật giáo Việt Nam không còn nguyên hình dạng gốc ban đầu, không còn thấy có ba lớp vải tượng trưng cho Tam Bảo và 52 đường chỉ biểu trưng cho Thiện Tài Đồng Tử 52 lần tham học Phật Pháp.

Theo thiển ý có lẽ vì lòng tự tôn Dân Tộc vì không muốn bị sự đồng hóa văn hóa của Trung Quốc thâm nhập quá sâu vào Phật Giáo Việt Nam, cho nên chư Tổ Việt Nam đã lược bớt những chi tiết nhỏ để thể hiện sự khác biệt giữa Tăng phục Phật Giáo Việt Nam và Tăng Phục Phật GiáoTrung Quốc.

Người Việt Nam là một dân tộc luôn luôn đề cao đạo lý “Uống Nước Nhớ Nguồn”nên cổ áo Hậu của Tăng Già Phật Giáo Việt Nam vẫn còn một gạch nối giữacổ áo là vết tích của “Tam Bảo Lĩnh” để lại, nhắc nhở chúng ta nhớ đến công ơn bao nhiêu đời tôn đức Tổ Sư dày công nghiên cứu mới chế tác đượctấm áo này, để ngày nay chúng ta mới có “Giải Thoát Phục”. Việt Nam chúng ta gọi là “Áo Hậu” ý nghĩa gần với Tăng Kỳ Chi hơn là Trung Quốc, vì gọi là “Áo Hải Thanh” là sự đồng nghĩa với việc Hán hóa không còn ý nghĩa ban đầu của Tăng Phục Phật chế là Tăng Kỳ Chi.

a3

a8

Áo Trực Chuyết (Nhật Bản)

a4

Áo Trực Chuyết (Hàn Quốc)

a6

Áo Hải Thanh (Trung Quốc)

a5

Áo Hậu (Việt Nam)

a9

Áo Hậu (Việt Nam)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4715)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5020)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4512)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7555)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12152)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5351)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]