Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xin Cứu Ðộ Mẹ Ðất

25/01/201111:15(Xem: 12871)
Xin Cứu Ðộ Mẹ Ðất

Xin Cứu Độ Mẹ Đất
Thích Trí Siêu
xincuudomedat_thichtrisieuSách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.

Mục Lục

Part I
Lời nói đầu
I/ Mẹ Đất
II/ Mẹ Đất đang bị tàn hoại
1. Màng ozone bị thủng lỗ
2. Bầu khí quyển tăng nhiệt
3. Rùng cây bị đốn phá
4. Đất mầu thành đất muối
5. Sông biển thành cống rãnh
Part II

III/ Mẹ Đất bệnh thì chúng sinh bệnh
1. Xã hội nô lệ hóa
2. Tỵ nạn thiên nhiên
3. Không khí, nước và thức ăn ô nhiễm
IV/ Nguyên nhân Mẹ Đất bệnh
1. Sự u mê, tham lam, ích kỷ
2. Gương xưa châu Đại Dương
V/ Xin cứu độ Mẹ Đất
1. Phật pháp bất ly thế gian pháp
2. Sống đời tỉnh thức
3. Hiếu sinh và tình thương nhân loại
4. Thiểu dục tri túc
5. Thông điệp

Lời nói đầu

Từ nay cho đến năm 2000, có nhiều người đang chờ đợi một tai họa lớn lao khủng khiếp sẽ xảy đến trên Trái Đất, vì có nhiều sấm ký thuộc vài tôn giáo khác nhau đã nói đến cuộc thay đời đổi thế. Như trong đạo Chúa, sách thánh kinh Khải Huyền (Apocalypse) có nói đến ngày tận thế, tức cuộc chiến đấu cuối cùng giữa hai mãnh lực thiện và ác, giữa Thiên Chúa và quỷ Satan. Trong cuộc chiến này, nhân loại trên địa cầu sẽ bị tàn sát và tiêu diệt gần hết bởi chiến tranh, thiên tai, bão lụt, hạn hán, cướp bóc v.v... Sấm Trạng Trình cũng có nói đến việc chết bảy còn ba, chết hai còn một lúc đó thiên hạ mới được thái bình. Một số tín đồ của Đạo Cao Đài, Hòa Hảo, theo sấm ký của Huỳnh Giáo Chủ và các bậc tôn sư của họ, cũng đã lo chuẩn bị tu nhân tích đức, làm lành lánh ác để đón chờ ngày tận thế và hội Long Hoa. Ngoài ra còn nhiều đạo giáo khác cũng đang sửa soạn cho cuộc đổi đời, như phong trào New-Age (Kỷ nguyên mới) của Mỹ, họ ca ngợi và rao giảng tình thương cùng những sự tu tập mới lạ, hầu có thể tiếp nối thích ứng với kỷ nguyên mới, tức kỷ nguyên Bảo Bình (Ere du Verseau) bắt đầu từ năm 2000 trở đi. Theo họ, con người trong kỷ nguyên mới này sẽ có đời sống đạo đức, tâm linh rất cao, không còn bám víu vào những chủ nghĩa duy vật, không còn đam mê vật chất, biết sống an vui hạnh phúc trong tình thương chân thật. Ở cuối kỷ nguyên Song Ngư (Ere du Poisson), con người mặc dù có tiến bộ về khoa học, nhưng trình độ tâm linh còn nghèo nàn, ấu trỉ và thoái hóa ! Chỉ biết lấy, nhận mà không biết cho và chia xẻ. Chỉ biết vơ vét làm giàu cho mình, còn kẻ khác nghèo đói thì mặc kệ. Chỉ biết hưởng thụ khoái lạc vật chất nhất thời mà không ý thức được hậu quả tai hại về sau.

Riêng trong đạo Phật của chúng ta không thấy nói gì về sự biến chuyển của cuối thế kỷ 20. Thiết nghĩ không cần phải có sấm ký của Phật hay Tổ để lại mới nhận ra được rằng quả đất đang lâm nguy. Chỉ cần thấy nhân là có thể đoán biết quả sẽ ra sao ? Nhưng chúng ta đâu có để ý thực tại, còn mải mê tầm chương trích cú, dịch kinh giảng luận, đi tìm chân lý trong kinh sách, trong khi đó kinh sách không phải là chân lý mà chỉ là những ngón tay chỉ mặt trăng. Chân lý cần được tìm thấy trong thực tại sống động, vậy mà chúng ta vẫn còn cố gắng bám víu vào những hình thức cũ xa xưa. Chúng ta chỉ hạn cuộc Đạo Phật của mình trong việc xây chùa, đắp tượng, hay việc ăn chay, tụng kinh, niệm Phật. Phải chăng vì thế mà Phật Giáo Việt Nam ở Hải Ngoại không hấp dẫn thu hút và truyền bá được cho người Tây Phương ?

Chúng ta vẫn thường nói những câu như: Phật Pháp bất ly thế gian pháp, hay Phật tại thế gian bất ly thế gian giác v.v... Như vậy chúng ta phải hành động ra sao ?

Nếu tình trạng chính trị, kinh tế, xã hội thoái hóa, Phật tử làm ăn thất nghiệp, hao hụt thì lấy tiền đâu ra cúng chùa ? Nếu ngày mai cả vùng tiểu bang California bị động đất mạnh và sụp xuống biển thì mấy chục ngôi chùa sẽ dời đi đâu ? Hay là chùa ai sụp thì cứ sụp, chùa tôi đã có Phật độ lo chi!

Đạo Phật là đạo tỉnh thức. Đã đến lúc chúng ta cần tỉnh thức lớn, không những chỉ tỉnh thức cuộc đời là bể khổ mà cần tỉnh thức thêm rằng quả Đất của chúng ta ở đang lâm nguy và mong rằng tất cả Phật tử cùng nhau đóng góp vào việc cứu độ Trái Đất.

Kundreul Ling, đầu Xuân 1993

Thích Trí Siêu

WP: Diệu Hỷ

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5586)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5501)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6901)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4288)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9117)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5455)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5074)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5670)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6156)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5164)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]