Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Dâng Hương Cúng Phật Trong Nghi Lễ Phật Giáo Bắc Truyền

30/12/201005:02(Xem: 5899)
Lược Ý Dâng Hương Cúng Phật Trong Nghi Lễ Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý
DÂNG HƯƠNG CÚNG PHẬT
TRONG NGHI LỄPHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

(chuaminhthanh.com): Dânghương cúng Phật, thắp hương cúng Phật, xông hương cúng Phật, là nét vănhoá đặc trưng của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền. Người Đông phương khi nhắc đến đi chùa lễ Phật hay đến đình chùa miếu mạo lễ các bậc Tiên Thánh thiện Thần, điều trước tiên mọi người nghĩ đến là phải thắp hương cúng dường, khi có duyên sự cần cầu nguyện Chư Phật Bồ Tát hay khấn vái các vị Thánh Thần để hộ trì, thì cũng dùng hương để gởi lời nguyện cầu của mình đến chư Phật Bồ Tát các bậc linh thiên. Thắp hương cúng dường có mặt hầu hết trong các nghi thức, lễ tiết quan trọng cũng như trong sinh hoạt thường ngày của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền.

Truyền thống thắp hương cúng Phật trong Phật Giáo có từ thuở Đức Phật còn tại thế, trong Kinh Trường A Hàm quyểnthứ hai Kinh Du Hành chép: “Đệ tử của Phật vì Đức Thế Tôn cất Tịnh Xá tolớn, chỉnh lý sửa sang quét dọn lại sân vườn, đốt hương cúng dường.” Trong Kinh Phật Thuyết Giới Đức Hương cũng có chép: “Ngài A Nan lấy hương làm đề tài để thỉnh Phật thuyết pháp, Đức Phật tuỳ duyên khai thị,người tu trì thập thiện, đức hạnh được vang xa, cũng như hương báu có mùi vi diệu được mọi người tán thán.”

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm 19 Pháp Sư Công Đức chép: “…Như có người trì Kinh Pháp Hoa, có thể thành tựu800 công đức của mũi căn, được mũi căn thanh tịnh, có thể ngửi được cácloại hương thơm của các loại hoa trong tam thiên đại thiên thế giới.”

Tục xông hương, đốt hương hoặc thoa hương lên người có nguồn gốc từ Ấn Độ, do khí hậu khô nóng, thường ra mồhôi cho nên thoa hương lên người để trừ khử mùi hôi, thứ nữa thời tiết nóng nực khô hanh thường làm cho không khí oi bức khó chịu, xông hương lên làm tan đi cảm giác khó ở tạo nên không khí thơm nhẹ dễ chịu cho nênngười Ấn Độ thường xông hương trong nhà.

Từ những đặc điểm trên hương liệu trở thành vật liệu hữu ích và quý giá cho nên chỉ có tầng lớp Tu sĩ Bà La môn. Hoàng Gia, quý tộc mới có đủ điều kiện để sử dùng và dần dần trở thành cúng phẩm quý giá của những người thuộc các giai cấp dâng lên hiến cúng thần thánh trong các nghi tiết tôn giáo.

Đức Thích Tôn thành đạo Bồ đề bậc tôn quý nhất trên cỏi trần, thầy của trời người, cho nên chẳng những loài người dâng hết thảy các loại hương báu để cúng dường Ngài, mà chư Thiên cũng đem chủng chủng các loại thiên hương đến cúng dường Phật. Vì vậy xông hương, thắp hương, ướp hương cúng dường Phật là một nghi tức để đệ tử tỏ lòng cung kính cúng dường đối với Đức Phật, là nghi tiết không thểthiếu đối với Tăng Tín đồ Phật Giáo: “Nguyện thử diệu hương vân, biến mãn thập phương giới, cúng dường nhất thiết Phật ,Tôn Pháp chư Bồ Tát, vô biên Thanh Văn chúng, cập nhất thiết Thánh Hiền.”

Đại Thừa Phật Giáo hưng khởi cúng dường hương cho Phật đã trở thành một nghi tiết quan trọng không thể thiếu trong Phật Giáo Đại Thừa cho nên các vị Đại Thừa hưng giáo Tổ sư đều có những tác phẩm nói về hương, như Ngài Long Thọ Đại Luận Sư có bộ “Hương Hàm Bảo Man” và “Hoà Hợp Hương Pháp” Ngài Đông Phương Chi Quang, Đại Đường Huyền Trang Tam Tạng Đại Pháp Sư trong bộ Đại Đường Tây Vực Ký có chép về những loại hương được nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa như: “Tu Mạn Nhiễm Hoa, Xà Đề Hoa Hương, Ba La Hoa Hương, Thanh Xích Bạch Liên Hoa Hương, Hoa Thụ Hương, Quả Thụ Hương, Chiên Đàn Hương, Trầm Thuỷ Hương, Đa Ma La Mạt Hương, Đa Già La Hương, Câu Đà La Thụ Hương, Mạn Đà La Thụ Hương, Thù Sa Hoa Hương, Man Thù Sa Hoa Hương.v.v…”

Từ Buổi đầu lịch sử khi Phật Giáo truyềnđến phương Đông, Tín ngưỡng thờ cúng của Phật Giáo là phương pháp hữu hiệu để truyền đạt chân đế của Phật Đà và đồng thời là con đường nhanh nhất đưa Đạo Phật hoà nhập vào trong xã hội, phong tục tập quán của người bản xứ, trong Hán Đường Phật Giáo Tư Tưởng Luận Tập chép: “Thời Nhà Hán hoàng gia và quý tộc vì tìm cầu thuật trường sanh, nên trong cung lập đền thờ Phật để cầu sự gia hộ của Phật để được trường sanh bất tử…

Đương thời Tôn Giáo tại Trung Quốc có ưuthế là lo việc thờ tự cúng kiến cho thế lực thống tri cho nên Phật Giáokhi mới truyền vào cũng biến thành một trong những tôn giáo phục vụ choviệc cúng kính và cầu nguyện” .Trong Hán Nguỵ Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử cũng cho rằng: “Phật Giáo Thời Nhà Hán được coi nư một tôn giáo chuyên về thờ cúng với học thuyết đặc thù quỷ thần và báo ứng.”, Trong Hậu Hán Thư có đoạn Nhượng Giai Thượng Thư nói: “Lại nghe trong cung có lập đền thờ Hoàng Lão Phù Đồ, đây là đạo thanh tịnh hư vô, quý trọng vô vi…”.

Lễ nghi cúng kính cầu nguyện thì không thể thiếu thắp hương để khấn vái cho nên từ rất sớm trong những bộ sách xưa có nói về tục thắp hương hành lễ của Phật Giáo. Trong Nguỵ Thư ThíchLão Chí có đoạn chép: “…Côn Tà Vương giết Hưu Đồ Vương…chiếm được tượngngười vàng (Đức Phật thời ấy được gọi là kim tiên) Vua Nhà Hán cho là vị Đại Thần đem thờ trong cung Cam Tuyền…đốt hương lễ bái…” trong sách Ngô Chí có đoạn chép về thời kỳ đầu Phật Giáo du nhập vào Việt Nam cũng chuyên về tín ngưỡng thờ cúng, thắp hương lễ bái: “…ở Giao Châu…khi ra đường người ta thương nghe tiếng kiển, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ ( chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người..”.

Văn hoá thắp hương cúng Phật đến với Phật Giáo Bắc Truyền sớm nhất trong tất cả các truyền thống văn hoá PhậtGiáo khác, khi đến với Phương Đông loại hình văn hoá này như được chắp thêm cánh vì nó hấp thụ hết thảy những kiến thức văn hoá khoa học về hương liệu của người phương Đông, và nó thăng hoa vì sự tinh tế trong triết lý sống cũng như hoà mình vào thiên nhiên của người Đông Độ, nó huyền ảo hơn trong nghệ thuật huyền học tiên khí của nền kiến thức Lão Nho.

Văn hoá dâng hương cúng Phật trong Phật Giáo Bắc Truyền được chia ra hai loại chính đó là Huân Hương và Phần Hương.

1- Huân Hương: dùng các loại hương phẩm nguyên gốc có mùi vị đặc trưng như hương cây cỏ, hương của trái cây, hương của tinh dầu, những loại này không cần thông qua một điều kiện nào như xông hay đốt để có mùi hương mà chính từ bản thân của loạihương đó tự nhiên toả hương, làm cho Phật Điện cũng như tượng Phật và nơi thờ Phật thoang thoảng mùi hương đó là loại thứ nhất gọi là Huân Hương cúng Phật.

2- Phần Hương: Còn goi là thắp hương, đốt hương, loại hương này được chế từ các loại cây cỏ có hương vịtổng hợp tạo thành, những thành phần trong hương dùng để đốt thường có Hương của cỏ, Hương của cây, Hương của hoa, Phấn hương, các loại bột trộn vào để trợ hoả khi đốt như Não hương, Cam thảo, Đinh hương và Nhục Quế.

Khi tạo các loại hương cao cấp người ta thường dùng Trầm hương hay Chiên Đàn hương, những loại bột hương này saukhi được phối trộn xong, người ta tạo thành các loại hương mà tuỳ theo khi sử dụng mà có hình dáng khác nhau. Thường thì nững thể loại hương được dùng trong các nghi lễ của Phật Giáo Bắc Truyền có ba loại: Nhang cây, nhang vòng và nhang có hình trụ và các loại Hương này khi dâng lên cúng dường Phật đều phải đốt thì mới có mùi hương, tất cả những thể loạihương này đều không còn thuần nguyên chất mà dều là hợp hương.

Thắp hương cúng Phật thường thì ta thắp một cây hoặc ba cây. Một cây hương tượng trưng cho ý nghĩa “Nhất thiết biến lễ sát trần Phật” là dùng một nén hương này dâng lên đãnh lễ cúng dường hết thảy mười phương chư Phật chư Đại Bồ Tát chư Hiền Thánh Tăng trong mười Phương.

Ba cây hương tượng trưng cho Giới Hương,Định Hương và Huệ Hương, nguyện đem hết thảy lòng thành kính tâm nguyệntu Giới, tu Định, tu Huệ của mình dâng lên cúng dường hết thảy Tam Bảo trong Mười Phương và nguyện cầu sự gia hộ của Tam Bảo làm cho chí tu họccủa mình luôn vững bền và một ngày không xa sẽ đến được Đạo Tràng của chư Phật.

Thắp hương cúng dường Phật luôn làm cho tâm ta định về một chổ, và rất dễ dàng để cho tâm của mình và chư Phật tương ưng, sự tương ưng này làm cho tam nghiệp của chúng ta hoàn toàn thanh tịnh mà đã thanh tịnh rồi thì trong giây phút đó chúng ta đến đượcđạo tràng của chư Phật chứng được Đạo Bồ Đề, trong Du Già Diệm Khẩu YếuTập có đoạn chép: “Thân thường thanh tịnh chứng Vô Thượng Đạo, Khẩu thường thanh tịnh chứng vô thượng đạo, Ý thường thanh tịnh chứng Vô Thượng Đạo.”.

Trong hầu hết các nghi thức trong lễ nghi của Phật Giáo Bắc Truyền như: tụng Kinh, ngồi Thiền, lễ tắm Phật, Đàn tràng Thuỷ lục, lễ khai quang, truyền giới, phóng sanh, cầu an, cầu siêu, chẩn tế..v.v.. hầu như không thể thiếu nghi thức nguyện hương, thắp hương cúng Phật và trong mỗi nghi thức dâng hương cúng Phật đều có tên gọi riêng biệt để phân loại Pháp Hội ý nghĩa. Khi tín đồ vô chùa thắp hương lễ Phật thì được gọi là “Khách Hương” đem hương vào chùa cúngdường để thắp hương cúng Phật được gọi là “Kính Hương” hoặc là “ Tấn Hương”.

Phật tử đem tiền cúng chùa dể mua hương cúng Phật gọi là “Hương Tư” Chùa nhiều Phật tử gọi là “Hương Hoả Đảnh Thạnh” Bài chư tăng đọc khi cúng hương gọi là “Hương Tán” bàn Phật gọi là “Hương Án” chư Tăng tại Phật tiền cúng hương gọi là “Nguyện Hương” hay là “Niệm Hương” những trai chủ phát tâm làm Pháp Hội khi dâng hương cúng Phật gọi là “Thượng Hương” đại diện cho người khác dâng hương gọi là “Đại Hương”.

thamhuong

Trai chủ thiết trai cúng dường chư tăng trước nên dâng hương nhiễu quanh đại chúng cúng dường hoặc thắp hương nhiễu tháp gọi là “Hành Hương” lễ Phật đạt tới Đại Thừa cảnh giới gọi là“Tâm Hương” cùng nhau Phát tâm tín phụng Phật Pháp, cùng nhau tu hành, tâm đầu ý hợp gọi là “Hương Hoả Nhân Duyên” người lo việc hương hoả trong chùa gọi là “Hương Đăng”.

Chưởng quảng về bộ phận hương đền gọi là“Hương Ty” Ngồi Thiền có đốt hương để làm thời gian biểu gọi là “Toạ Hương” Ngồi Thiền xong đứng lên đi nhiễu Phật gọi là “Bào Hương” Thiền bản dùng để cảnh sách chư tăng khi toạ thiền gọi là “Cảnh Sách Hương Bảng” dùng trong Giới Đàn gọi là “Thanh Quy Hương Bảng” Phật Điện cũng còn gọi là “ Hương Điện” nhà bết trong chùa gọi là “Hương Thụ” còn ngườitu hành khi phạm thanh quy bị phạt thì gọi là “Quỳ Hương”.

Dùng Hương cúng dường Phật là pháp môn cúng dường tối thắng nhất, đồng thời thể hiện hết tấm lòng cung kính đốivới Phật và tượng trưng cho phiền não đã được gội rữa, trong thân và tâm cảm thấy được an lạc, được như vậy mới đúng như ý nghĩa cúng dường Phật.trong các Kinh Đại Thừa hầu như luôn có những phần nói về cúng dường hương cho Phật.

Trong Kinh Đà La Ni Tập quyển 3 có chép về 21 loại cúng dường cho Phật trong đó có nói đến hương: “Hương Thuỷ, hương để đốt và các loại hương thơm, dùng những thứ hương đó dâng lên cúng Phật..” trong Kinh Tô Tất Địa có chép 5 loại cúng dường: “Bột hương, hương để đốt, hoa, đèn, ẩm thực”, trong “Hành Pháp Can Diệp Sao” chép: “sáu Pháp cúng dường tượng trưng cho sáu Ba La Mật…Hương thuỷ tượng trưng cho Giới Ba La Mật..”.

Thắp Hương cúng dường Phật làm cho chúngta khởi tâm cung kính chí thành đến với Tam Bảo, thâm tín Tam Bảo, có công năng làm cho ta có thể hoà nhập vào tâm từ bi và trí tuệ của Phật và Bồ Tát, lại khiến cho ta luôn phát tâm dõng mãnh tinh tấn trên con đường học theo ngôn hạnh của Phật và Bồ Tát. Đốt hương cúng Phật là tu Phước nếu như ta khi niệm hương với tâm chí thành không loạn “Tâm Hương Nhất Biện” thì tự nhiên sẽ cảm ứng được với Chư Phật, như vậy mới đạt đến cảnh giới của “Giải Thoát Tri Kiến Hương”.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/10/2010(Xem: 6858)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 4889)
Giữa cơn lốc biến động xã hội đầy kịch tính của cuối thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của con người đối với các vấn đề khủng hoảng sinh thái tâm linh và môi trường, mùa Phật lại trở về như nguồn suối hạnh phúc chảy vào tâm thức mọi người.
10/10/2010(Xem: 7212)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
09/10/2010(Xem: 6974)
Sáutu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau "tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà"(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (PhổDiệu kinh - Lalitavistara). Họ đixuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ảvà lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọnmột lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghịlực để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu củachính họ.
06/10/2010(Xem: 5138)
Sở dĩ tôi nói tới ăn uống ở hàng đầu vì có thể tới 90 phần trăm những bệnh của con người là do ăn uống mà ra. Cơ thể ta luôn luôn giữ một mức độ thăng bằng trước những biến đổi ngoại cảnh. Ngoại cảnh có nóng hay lạnh, cơ thể vẫn giữ ở một mức độ 30 độ bách phân. Ngoại cảnh có làm tim ta đập nhanh hay chậm một chút nhưng sau đó cơ thể vẫn giữ ở mức độ 70 tới 100 nhịp tim mỗi phút. Cũng như vậy đối với huyết áp, số lượng máu, nồng độ của các chất hữu cơ hoặc vô cơ trong cơ thể. Ăn uống chính là đưa các chất ngoại lai vào cơ thể. Nếu đưa vào cho đúng cách, cơ thể sẽ được bồi dưỡng đầy đủ, hoạt động tốt. Nếu không cho đúng cách, hoặc quá nhi
06/10/2010(Xem: 13767)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
06/10/2010(Xem: 6548)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sức chân tình, lo Phậtđi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáo mai sau.
05/10/2010(Xem: 5297)
Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao.
03/10/2010(Xem: 5478)
Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.
03/10/2010(Xem: 14992)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567