Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vị Phật Nổi Loạn

01/06/201309:18(Xem: 6747)
Vị Phật Nổi Loạn
VỊ PHẬT NỔI LOẠN
Dzogchen Ponlop Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana

Khi nghe thấy từ buddha[Phật], bạn thường nghĩ đến điều gì? Một bức tượng bằng vàng? Một hoàng tử trẻ trung ngồi dưới gốc cây lớn? Hay có thể là Keanu Reeves trong phim Vị Tiểu Phật? Các nhà sư mặc y áo, đầu trọc? Bạn có thể có nhiều liên tưởng hay chẳng có gì. Phần lớn chúng ta không hề có kết nối thực sự nào với từ này.

Tuy nhiên, từ buddha đơn giản nghĩa là “tỉnh thức” hay “giác ngộ.” Nó không liên quan đến một nhân vật lịch sử đặc biệt nào hay đến một triết học hoặc tôn giáo nào. Nó liên quan đến tâm của chính bạn. Bạn biết rằng bạn có tâm, nhưng nó ra sao? Nó tỉnh thức. Tôi không ám chỉ đến việc “không ngủ.” Tôi muốn nói tâm bạn thực sự tỉnh thức, vượt khỏi mọi tưởng tượng của bạn. Tâm rõ ràng, rộng mở, khoáng đạt, và tràn đầy các phẩm tính xuất sắc: tình yêu thương không điều kiện, từ bi và trí tuệ thấy được mọi thứ như chúng thực sự là. Nói cách khác, tâm tỉnh thức của bạn luôn là một tâm tốt đẹp; nó không bao giờ ngu dốt hay vô minh. Nó không bao giờ lo lắng vì những hoài nghi, sợ hãi và cảm xúc thường dày vò chúng ta. Đó là con người thực sự của bạn. Đó là bản tính chân thực của tâm bạn và tâm mọi người. Nhưng tâm bạn không chỉ ngồi yên đó, hoàn hảo, không làm gì. Nó luôn trong một vở kịch, không ngừng tạo ra thế giới của chúng ta.

Nếu điều đó đúng, vậy tại sao cuộc đời bạn cũng như toàn bộ thế giới không hoàn hảo? Tại sao bạn không hạnh phúc suốt đời? Làm sao bạn có thể cười lúc này và thất vọng lúc khác? Và tại sao những con người “giác ngộ” như vậy lại cãi lộn, đánh nhau, lừa gạt, trộm cắp và gây chiến? Điều đó là bởi, mặc dù trạng thái giác ngộ là bản tính chân thực của tâm, phần lớn chúng ta không nhận thấy nó. Tại sao? Có thứ gì đó đã chặn lối. Có thứ gì đó đang ngăn cản việc chúng ta thấy nó. Chắc chắn đôi khi chúng ta thấy nó ở đâu đó. Nhưng ngay khi nhận ra nó, một thứ khác lại xuất hiện trong tâm – “Mấy giờ rồi? Đã đến giờ trưa chưa? Ồ, nhìn con bướm kìa!” – và sự thấu suốt của chúng ta biến mất.

Có vẻ rất châm biếm, nhưng thứ ngăn cản việc bạn nhìn thấy bản tính chân thực của tâm – Phật tính – lại chính là tâm bạn, phần tâm luôn bận rộn, không ngừng chạy theo dòng suy nghĩ, cảm xúc và quan niệm. Tâm bận rộn này là con người mà bạn nghĩ bạn đang là. Bạn dễ dàng nhìn thấy nó, giống như khuôn mặt của người đang đứng trước mặt. Ví dụ, ý nghĩ của bạn ngay lúc này là rõ ràng với bạn hơn so với việc bạn biết về ý nghĩ đó. Khi bạn nổi giận, bạn chú ý nhiều hơn tới điều mà bạn đang tức giận thay vì nguồn gốc thực sự của cơn giận, nơi mà cơn giận thực sự bắt nguồn. Nói cách khác, bạn chú ý tới điều mà tâm bạn đang làm, nhưng không thấy chính tâm. Bạn đồng nhất bản thân với những nội dung của tâm bận rộn này – ý nghĩ, cảm xúc hay ý tửng – và kết thúc bằng việc cho rằng tất cả đống hỗn độn này là “tôi” và “tôi ra sao.”

Khi bạn làm điều đó, nó giống như bạn đang ngủ và nằm mơ, tin tưởng rằng những hình ảnh trong mơ là thật. Ví dụ, nếu bạn mơ thấy bạn bị một kẻ lạ mặt truy đuổi, nó sẽ rất đáng sợ và chân thực. Tuy nhiên, khi bạn tỉnh dậy, cả kẻ lạ mặt và những cảm giác sợ hãi đều biến mất, và bạn thấy thực sự nhẹ nhõm. Thêm nữa, nếu bạn biết rằng bạn đang mơ ngày từ đầu, bạn sẽ không cảm thấy chút sợ hãi nào.

Giống như vậy, trong đời sống thường ngày, chúng ta như những kẻ đang mơ, tin rằng giấc mơ là thật. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta thức, nhưng thực sự thì không. Chúng ta cho rằng tâm bận rộn với các ý nghĩ và cảm xúc này là con người thực sự của chúng ta. Nhưng khi chúng ta thực sự tỉnh dậy, mọi hiểu lầm về việc chúng ta là ai – và khổ đau mà vô minh gây ra – biến mất.

KẺ NỔI LOẠN BÊN TRONG

Nếu có thể, có lẽ tất cả chúng ta sẽ chìm vào giấc mơ này, thứ được chấp nhận là cuộc đời khi thức, nhưng thứ gì đó đã kéo chúng ta ra khỏi giấc ngủ này. Dù bối rối hay lẫn lộn thế nào, cái tôi uể oải của chúng ta vẫn nối liền với sự tỉnh thức trọn vẹn. Sự tỉnh thức đó rất sắc bén. Trí thông minh và nhận thức rõ ràng của chúng ta có khả năng vượt qua thứ ngăn cản chúng ta thấy cái tôi chân chính – bản tính chân thực của tâm. Một mặt, chúng ta quen với giấc ngủ và hài lòng với giấc mơ; mặt khác, cái tôi tỉnh thức không ngừng đánh thức chúng ta và thắp lên những ngọn đèn chói sáng. Cái tôi tỉnh thức này, tâm tỉnh thức chân thực, muốn thoát khỏi những trói buộc của giấc ngủ, vượt qua sự thực hư huyễn. Khi chúng ta bị khóa chặt trong giấc mơ, nó nhìn thấy tiềm năng giải thoát. Bởi vậy, nó khích lệ, khuấy động, thúc giục cho đến khi chúng ta muốn hành động. Bạn có thể nói rằng chúng ta đang sống với một kẻ nổi loạn bên trong.

Khi chúng ta nghĩ về những kẻ nổi loạn chính trị hay xã hội – trong lịch sử hay đương thời, nổi tiếng hay bị lãng quên – những người đấu tranh và đang đấu tranh vì nguồn gốc của giải phóng và công bằng, chúng ta nghĩ về họ như những anh hùng: từ những vị sáng lập Cách mạng Mỹ đến Harriet Tubmanl Mohandas Gandhi; Martin Luther King; Aung San Suu Kyi; và Nelson Mandela. Ngày nay, chúng ta kinh ngạc trước lòng can đảm, từ bi và thành quả đáng khâm phục của họ. Tuy nhiên, những người có lý tưởng như vậy và các nhà cải cách luôn được xem là kẻ gây rối bởi những người mà họ thách đấu. Ý tưởng và dự định của họ, hay thậm chí bạn bè của họ thường không được chào đón. Dường như, những kẻ nổi loạn là một điều may mắn hỗn hợp – rất tốt cho ngành điện ảnh, nhưng trong đời sống thực, họ khiến người ta lo lắng. Sẽ là rất khó để có thể gạt họ sang một bên. Họ không chấp nhận những sự thật không trọn vẹn hay những cậu trả lời không chắc chắn. Họ từ chối làm theo các quy tắc kiểm soát hay bó buộc họ và người dân trong xã hội của họ. Con đường đến chiến thắng của họ trải qua nhiều sợ hãi ghê gớm. Nhưng tính cách nổi loạn của họ không dễ bị khuất phục. Cam kết với một nguyên nhân – một viễn cảnh vĩ đại hơn về điều có thể là – là nhân tố quyết định của một kẻ nổi loạn.

Trong hành trình tâm linh, kẻ nổi loạn này là âm thanh từ tâm giác ngộ của chính bạn. Chính trí thông minh sắc sảo, rõ ràng là thứ ngăn cản trạng thái vô minh và khổ đau của bạn. Vậy, vị Phật nổi loạn này ra sao? Một kẻ gây rắc rối với vài phần anh hùng. Vị Phật nổi loạn là kẻ phản bội khiến bạn bật công tắc cảnh giác từ trạng thái ngủ sang thức. Điều này nghĩa là bạn có sức mạnh đánh thức cái tôi đang mơ, kẻ đang mạo danh bạn. Bạn có phương pháp để cởi dây trói khổ đau và mở khóa vô minh. Bạn là quán quân của tự do. Một cách tuyệt đối, nhiệm vụ của vị Phật nổi loạn là thúc giục cuộc cách mạng trong tâm.

NHỮNG VỊ PHẬT BÌNH THƯỜNG

Cuốn sách này nói về hành trình đến tự do, được miêu tả bởi vị Phật lịch sử, Ngài Thích Ca Mâu Ni, cách đây hơn hai mươi sáu thế kỷ. Có nhiều câu chuyện đẹp đẽ và ý nghĩa về sự đản sinh, cuộc đời và cách thức Ngài đạt tới giác ngộ. Một số coi Phật là một người đàn ông bình thường, đã sống một cuộc đời phi thường. Số khác lại xem Ngài là Siêu nhân về tâm linh, một bậc thánh, với hành động cho thấy cách thức mà những người bình phàm có thể đạt đến tự do tối thượng mà Ngài đã tìm thấy.

Thực sự, các yếu tố cơ bản trong thời trẻ của Đức Phật không khác biệt lắm với chúng ta, ngoại trừ sự thật là Ngài đến từ gia đình hoàng gia giàu có trong khi phần lớn chúng ta thì không. Tuy nhiên, về cơ bản, điều mà chúng ta có thể thấy khi nhìn vào thời trẻ của Đức Phật Thích Ca – khi Ngài đơn giản được biết tới là Tất Đạt Đa [Siddhartha] – là sự đấu tranh vì độc lập và tự do của một thanh niên trẻ chống lại quyền hành của cha mẹ và cộng đồng. Ở một cấp độ nào đó, nó là câu chuyện cổ tích điển hình về một cậu bé con nhà giàu, chạy trốn khỏi gia đình:

Thái tử Tất Đạt Đa, vị Phật tương lai, sinh ra là con trai duy nhất của nhà vua và hoàng hậu bộ tộc Shakya, một vương quốc ở miền bắc Ấn Độ. Cậu sống một cuộc đời xa hoa, được bảo vệ và kiểm soát chặt chẽ bởi cha mẹ, những người mong đợi một ngày kia, hoàng tử trẻ sẽ kế vị ngai vàng. Cậu tận hưởng những đặc quyền lớn lao và niềm vui vẻ mà bạn có thể tưởng tượng ra – cung điện tuyệt vời, quần áo đẹp đẽ, người hầu và các bữa tiệc linh đình với những người nổi tiếng. Nhưng cuối cùng, Tất Đạt Đa không hài lòng với cuộc đời chỉ có tài sản vật chất, địa vị xã hội và quyền lực chính trị như vậy. Cậu mong mỏi tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống khi đối mặt với những điều đang chờ đợi tất cả chúng ta: bệnh tật, tuổi già và cái chết. Cậu vật lộn với việc hoàn thành những mong ước của cha mẹ, nhưng cuối cùng, đã quyết định phải sống theo cách riêng. Vào một đêm nọ, cậu rời bỏ cung điện, để lại đằng sau những lạc thú và sự bảo vệ để đến một nơi xa lạ, một đích đến mà cậu vẫn chưa tìm ra.

Nếu từ câu chuyện cổ này trở về với thành phố New York hôm nay, chúng ta sẽ có một câu chuyện của nước Mỹ hiện đại:

Một cặp vợ chồng giàu có và quyền lực đang mong chờ đứa bé đầu tiên. Hiểu được những hiểm nguy và khó khăn trong thế giới hiện đại, họ thề sẽ sử dụng tài sản và những mối quan hệ để giúp cuộc đời cậu bé an bình và dễ dàng nhất có thể. Thậm chí trước khi cậu chào đời, cậu đã được đăng ký vào vườn trẻ hạng nhất. Cậu được đặt một cái tên mỹ miều, phản ánh sự vĩ đại của dòng họ, nhưng bạn bè đều gọi cậu là Sid. Cậu lớn lên trong giới thượng lưu New York, tận hưởng mọi tiện nghi. Cha mẹ lên kế hoạch trước những đích đến cho cậu và thậm chí, họ tưởng tượng việc cậu kết hôn với con gái thượng nghĩ sĩ vùng …

Chúng ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi biết rằng, cuối cùng Sid quyết định tham gia vào một ban nhạc rock, xách ba lô tới Alaska, hay chỉ ngón tay cái của cậu ra đường để xem cuộc đời sẽ đưa cậu đến đâu. Điều tương tự cũng đúng với bất cứ người trẻ hay một trái tim đầy nhiệt huyết nào. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, bình thường hay khác lạ, chúng ta đều muốn tìm ra con đường riêng. Chúng ta muốn tìm thấy ý nghĩa tối thượng của cuộc đời.

Từ lịch sử, chúng ta biết rằng Hoàng tử Tất Đạt Đa đã thành công trong hành trình tìm kiếm, nhưng chúng ta không thực sự biết về người bạn hiện đại, cậu Sid. Chúng ta đều mong những điều tốt nhất đến với cậu. Vấn đề ở đây là, vào lúc ra đi, không ai trong số họ biết gì về tương lai. Cả hai đều rất mạo hiểm, từ bỏ sự an toàn và thế giới quen thuộc để dấn thân vào một miền xa lạ. Nhưng việc Sid dám mạo hiểm như vậy cũng rất tự nhiên như việc Tất Đạt Đa rời bỏ hàng rào cung điện. Sự thôi thúc hướng về tự do là một phần quan trọng trong bản chất của chúng ta; nó không phải là một khía cạnh riêng biệt của những con người đặc biệt hay những vị mang y áo từ cách đây rất lâu hay ở vùng đất xa xôi. Rõ ràng, “yêu-tự do” là một cụm từ phổ biến để miêu tả tính cách Mỹ - hay chí ít, đó là điều mà chúng ta thường nghe trên đài báo – nhưng hãy đi dạo trên những con phố của bất kỳ thành phố hiện đại nào, và bạn sẽ tìm thấy một tinh thần tương tự, đặc biệt là với giới trẻ.

Giới trẻ Mỹ cũng nhiệt thành đóng góp vào tính cách yêu-tự do này. Ngoài những người dân bản địa của Bắc Mỹ, phần lớn người dân ở đây là người mới đến từ châu Âu, Á hay Phi. Rất nhiều người trong số chúng ta đã mất đi gốc rễ đạo đức, và một số có lẽ đã quên mất hoàn toàn (và đơn giản tin rằng “Tôi là một người Mỹ”), xét ở một khía cạnh nào đó, điều tốt đẹp và độc đáo nhát về nước Mỹ chính là tổ tiên toàn cầu, tinh thần tiên phong và tính cách độc lập mà cả thế giới đã đóng góp.

Nước Mỹ hỗn tạp này đã trở thành nhà của những kẻ tiên phong, nhà phát minh, kẻ suy nghĩ tự do và những người đầy mơ mộng, cũng như những kẻ giáo điều và đạo đức. Những họa sĩ và nhạc sĩ hiện đại đi khắp các lối ngầm cùng với chủ nhà băng và công nhân. Mọi người đều được chào đón. Các cuộc hội họp gia đình ở Mỹ chứa đầy những tia lửa – từ những tia lửa trong nhà bạn đến những thứ diễn ra trên sân khấu quốc gia và được ghi lại bởi CNN và Entertainment Weekly. Nhưng khi những tia lửa từ sự cọ xát các thứ đối lập bùng cháy trong bầu không khí cởi mở, nó tạo ra một sự khác biệt. Sau đó, thay vì những cọ xát bình thường, chúng ta nhảy múa, điều tạo ra một năng lượng sáng tạo lớn lao. Bằng cách thách thức các giới hạn, đánh mạnh vào vỏ bọc của những quan niệm cũ, điều trước kia là không thể tưởng tượng, lại trở thành chuẩn mực mới. Ví dụ, không lâu trước đây, không ai nghĩ tới việc gõ nhẹ vào công tắc và đèn được bật, chứ đừng nói gì việc xem những hình ảnh xa xôi trên ti-vi hay lướt web. Thậm chí vào những năm 1960, chúng ta rất ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông bước đi trên mặt trăng từ phòng khách của chúng ta, điều bất ngờ dường như khá nhỏ bé.

ĐẾN ĐÍCH

Giống như những nhà khoa học đang không ngừng nỗ lực để mở ra các bí mật của thế giới bên ngoài, nhằm khám phá bản chất của sự thực, Tất Đạt Đa nghĩ đến việc mở ra những bí mật của thế giới bên trong của tâm. Khi rời bỏ cung điện, cậu để lại đằng sau người vợ trẻ, con trai và cuộc sống xa hoa. Cậu quyết tâm chế ngự sự ngu dốt và tìm ra chân lý. Cậu đến khu rừng mà chẳng có mái che trên đầu, không thức ăn và không ai bảo vệ.

Lúc đó, xã hội Ấn Độ đang trong một thời điểm thú vị. Cấu trúc xã hội rất phức tạp. Hệ thống đẳng cấp quyết định vị trí của bạn trong xã hội, trách nhiệm của bạn trong đời, nghề nghiệp và vị trí tâm linh. Tất cả đều này được thiết lập bởi hoàn cảnh ra đời. Mặt khác, nó cũng là thời đại rất thú vị. Học giả và các triết gia không ngừng tham gia vào những cuộc tranh luận lớn, điều đã tạo ra rất nhiều truyền thống tâm linh đầy ganh đua. Những nhóm thanh niên bắt đầu treo mình trong rừng, gia nhập nhóm này hay nhóm khác, thứ tồn tại bên ngoài xã hội. Tất Đạt Đa cũng đến và tu học với hai trong số những vị thánh nổi tiếng nhất trong rừng. Cậu nhanh chóng vượt trội sự hiểu của thầy và sau đó gia nhập một nhóm năm hành giả khổ tu. Quyết tâm đạt tới mục tiêu hơn bao giờ hết, cậu từ bỏ mọi lạc thú. Cậu trải qua những thực hành đau đớn của pháp tu khổ hạnh, bao gồm nhịn đói, với ý định sẽ vượt khỏi thân vật lý và làm cạn kiệt tham luyến của tâm. Sau sáu năm thực hành như vậy, Tất Đạt Đa gần chết. Lúc đó, cậu rời bỏ niềm tin rằng con đường bần cùng như vậy sẽ dẫn cậu đến tự do. Cậu quỵ ngã bên bờ một dòng sông.

Tất Đạt Đa đã rất gần mục tiêu, nhưng cậu không biết điều này. Một cô gái trẻ mang theo bát sữa gạo đi ngang qua đã cúng dường cậu món ăn này. Cậu chấp nhận, phá vỡ việc nhịn ăn sáu năm. Thấy vậy, năm anh em đồng tu khổ hạnh nghĩ rằng Tất Đạt Đa đã từ bỏ giới luật. Vô cùng giận dữ, họ thề sẽ không nói chuyện với cậu và bỏ đi. Tất Đạt Đa quán chiếu về hoàn cảnh trong khi dần hồi phục sức khỏe. Cậu nhận ra rằng cuộc đời với việc chìm đắm trong cung điện cũng như lối sống khổ hạnh trong rừng đều không phải là con đường chân chính dẫn tới tự do. Chúng đều là con đường cực đoan, và bám chấp với thái cực như vậy là một chướng ngại. Con đường thực sự nằm ở giữa. Nhận ra điều này, cậu sẵn sàng cho nỗ lực cuối cùng. Cậu ngồi trên nệm cỏ bên dưới tán lá của một cái cây và thề rằng sẽ ngồi đó cho tới khi nhận ra chân lý về tâm và thế giới.

Tất Đạt Đa thiền định trong bốn mươi chín ngày, và ba mươi lăm tuổi, cậu đạt được tự do đang tìm kiếm. Tâm cậu trở nên rộng lớn và cởi mở. Cậu nhận thấy sự thật về khổ đau của mọi chúng sinh và nguồn gốc của khổ đau đó. Cậu thấy tự do là điều mà mọi chúng sinh có thể đạt tới, và cậu cũng biết cách thức để họ đạt được. Cậu trở thành Đức Phật, Bậc Giác ngộ, và giảng dạy cho bất cứ ai đến gặp trong bốn mươi lăm năm tiếp theo. Nhiều người nương theo chỉ dẫn của Phật. Họ đạt được tự do riêng, và dòng truyền thừa giác ngộ bắt đầu.

Nhưng đó là quá khứ, và bây giờ là hiện tại. Cậu Sid ra sao? Những giấc mơ của cậu thế nào? Nếu cậu biết nơi cậu muốn đến, điều cậu cần là bản đồ và ai đó từng ở đó để có thể nói chuyện. Rất nhiều con đường trông giống nhau và thật dễ dàng để lạc đường. Vài con đường thay đổi hướng; số khác thì mất hút. Sid có thể hướng về Alaska và kết thúc ở một câu lạc bộ blue ở Chicago hoặc ở vùng ngoại ô với một vợ và ba đứa con. Cậu có thể trở thành một tiểu thuyết gia, một nhà khoa học hay tổng thống Hoa Kỳ. Hoặc cậu có thể bắt đầu một biến chuyển mới, một cuộc cách mạng về tâm, và truyền cảm hứng cho thế hệ mới. Có vô số khả năng cho mỗi người trong số chúng ta.

Trích: Vị Phật nổi loạn, Dzogchen Ponlop Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4711)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4743)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12130)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]