Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vị Phật Nổi Loạn

01/06/201309:18(Xem: 6741)
Vị Phật Nổi Loạn
VỊ PHẬT NỔI LOẠN
Dzogchen Ponlop Rinpoche
Việt dịch: Pema Jyana

Khi nghe thấy từ buddha[Phật], bạn thường nghĩ đến điều gì? Một bức tượng bằng vàng? Một hoàng tử trẻ trung ngồi dưới gốc cây lớn? Hay có thể là Keanu Reeves trong phim Vị Tiểu Phật? Các nhà sư mặc y áo, đầu trọc? Bạn có thể có nhiều liên tưởng hay chẳng có gì. Phần lớn chúng ta không hề có kết nối thực sự nào với từ này.

Tuy nhiên, từ buddha đơn giản nghĩa là “tỉnh thức” hay “giác ngộ.” Nó không liên quan đến một nhân vật lịch sử đặc biệt nào hay đến một triết học hoặc tôn giáo nào. Nó liên quan đến tâm của chính bạn. Bạn biết rằng bạn có tâm, nhưng nó ra sao? Nó tỉnh thức. Tôi không ám chỉ đến việc “không ngủ.” Tôi muốn nói tâm bạn thực sự tỉnh thức, vượt khỏi mọi tưởng tượng của bạn. Tâm rõ ràng, rộng mở, khoáng đạt, và tràn đầy các phẩm tính xuất sắc: tình yêu thương không điều kiện, từ bi và trí tuệ thấy được mọi thứ như chúng thực sự là. Nói cách khác, tâm tỉnh thức của bạn luôn là một tâm tốt đẹp; nó không bao giờ ngu dốt hay vô minh. Nó không bao giờ lo lắng vì những hoài nghi, sợ hãi và cảm xúc thường dày vò chúng ta. Đó là con người thực sự của bạn. Đó là bản tính chân thực của tâm bạn và tâm mọi người. Nhưng tâm bạn không chỉ ngồi yên đó, hoàn hảo, không làm gì. Nó luôn trong một vở kịch, không ngừng tạo ra thế giới của chúng ta.

Nếu điều đó đúng, vậy tại sao cuộc đời bạn cũng như toàn bộ thế giới không hoàn hảo? Tại sao bạn không hạnh phúc suốt đời? Làm sao bạn có thể cười lúc này và thất vọng lúc khác? Và tại sao những con người “giác ngộ” như vậy lại cãi lộn, đánh nhau, lừa gạt, trộm cắp và gây chiến? Điều đó là bởi, mặc dù trạng thái giác ngộ là bản tính chân thực của tâm, phần lớn chúng ta không nhận thấy nó. Tại sao? Có thứ gì đó đã chặn lối. Có thứ gì đó đang ngăn cản việc chúng ta thấy nó. Chắc chắn đôi khi chúng ta thấy nó ở đâu đó. Nhưng ngay khi nhận ra nó, một thứ khác lại xuất hiện trong tâm – “Mấy giờ rồi? Đã đến giờ trưa chưa? Ồ, nhìn con bướm kìa!” – và sự thấu suốt của chúng ta biến mất.

Có vẻ rất châm biếm, nhưng thứ ngăn cản việc bạn nhìn thấy bản tính chân thực của tâm – Phật tính – lại chính là tâm bạn, phần tâm luôn bận rộn, không ngừng chạy theo dòng suy nghĩ, cảm xúc và quan niệm. Tâm bận rộn này là con người mà bạn nghĩ bạn đang là. Bạn dễ dàng nhìn thấy nó, giống như khuôn mặt của người đang đứng trước mặt. Ví dụ, ý nghĩ của bạn ngay lúc này là rõ ràng với bạn hơn so với việc bạn biết về ý nghĩ đó. Khi bạn nổi giận, bạn chú ý nhiều hơn tới điều mà bạn đang tức giận thay vì nguồn gốc thực sự của cơn giận, nơi mà cơn giận thực sự bắt nguồn. Nói cách khác, bạn chú ý tới điều mà tâm bạn đang làm, nhưng không thấy chính tâm. Bạn đồng nhất bản thân với những nội dung của tâm bận rộn này – ý nghĩ, cảm xúc hay ý tửng – và kết thúc bằng việc cho rằng tất cả đống hỗn độn này là “tôi” và “tôi ra sao.”

Khi bạn làm điều đó, nó giống như bạn đang ngủ và nằm mơ, tin tưởng rằng những hình ảnh trong mơ là thật. Ví dụ, nếu bạn mơ thấy bạn bị một kẻ lạ mặt truy đuổi, nó sẽ rất đáng sợ và chân thực. Tuy nhiên, khi bạn tỉnh dậy, cả kẻ lạ mặt và những cảm giác sợ hãi đều biến mất, và bạn thấy thực sự nhẹ nhõm. Thêm nữa, nếu bạn biết rằng bạn đang mơ ngày từ đầu, bạn sẽ không cảm thấy chút sợ hãi nào.

Giống như vậy, trong đời sống thường ngày, chúng ta như những kẻ đang mơ, tin rằng giấc mơ là thật. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta thức, nhưng thực sự thì không. Chúng ta cho rằng tâm bận rộn với các ý nghĩ và cảm xúc này là con người thực sự của chúng ta. Nhưng khi chúng ta thực sự tỉnh dậy, mọi hiểu lầm về việc chúng ta là ai – và khổ đau mà vô minh gây ra – biến mất.

KẺ NỔI LOẠN BÊN TRONG

Nếu có thể, có lẽ tất cả chúng ta sẽ chìm vào giấc mơ này, thứ được chấp nhận là cuộc đời khi thức, nhưng thứ gì đó đã kéo chúng ta ra khỏi giấc ngủ này. Dù bối rối hay lẫn lộn thế nào, cái tôi uể oải của chúng ta vẫn nối liền với sự tỉnh thức trọn vẹn. Sự tỉnh thức đó rất sắc bén. Trí thông minh và nhận thức rõ ràng của chúng ta có khả năng vượt qua thứ ngăn cản chúng ta thấy cái tôi chân chính – bản tính chân thực của tâm. Một mặt, chúng ta quen với giấc ngủ và hài lòng với giấc mơ; mặt khác, cái tôi tỉnh thức không ngừng đánh thức chúng ta và thắp lên những ngọn đèn chói sáng. Cái tôi tỉnh thức này, tâm tỉnh thức chân thực, muốn thoát khỏi những trói buộc của giấc ngủ, vượt qua sự thực hư huyễn. Khi chúng ta bị khóa chặt trong giấc mơ, nó nhìn thấy tiềm năng giải thoát. Bởi vậy, nó khích lệ, khuấy động, thúc giục cho đến khi chúng ta muốn hành động. Bạn có thể nói rằng chúng ta đang sống với một kẻ nổi loạn bên trong.

Khi chúng ta nghĩ về những kẻ nổi loạn chính trị hay xã hội – trong lịch sử hay đương thời, nổi tiếng hay bị lãng quên – những người đấu tranh và đang đấu tranh vì nguồn gốc của giải phóng và công bằng, chúng ta nghĩ về họ như những anh hùng: từ những vị sáng lập Cách mạng Mỹ đến Harriet Tubmanl Mohandas Gandhi; Martin Luther King; Aung San Suu Kyi; và Nelson Mandela. Ngày nay, chúng ta kinh ngạc trước lòng can đảm, từ bi và thành quả đáng khâm phục của họ. Tuy nhiên, những người có lý tưởng như vậy và các nhà cải cách luôn được xem là kẻ gây rối bởi những người mà họ thách đấu. Ý tưởng và dự định của họ, hay thậm chí bạn bè của họ thường không được chào đón. Dường như, những kẻ nổi loạn là một điều may mắn hỗn hợp – rất tốt cho ngành điện ảnh, nhưng trong đời sống thực, họ khiến người ta lo lắng. Sẽ là rất khó để có thể gạt họ sang một bên. Họ không chấp nhận những sự thật không trọn vẹn hay những cậu trả lời không chắc chắn. Họ từ chối làm theo các quy tắc kiểm soát hay bó buộc họ và người dân trong xã hội của họ. Con đường đến chiến thắng của họ trải qua nhiều sợ hãi ghê gớm. Nhưng tính cách nổi loạn của họ không dễ bị khuất phục. Cam kết với một nguyên nhân – một viễn cảnh vĩ đại hơn về điều có thể là – là nhân tố quyết định của một kẻ nổi loạn.

Trong hành trình tâm linh, kẻ nổi loạn này là âm thanh từ tâm giác ngộ của chính bạn. Chính trí thông minh sắc sảo, rõ ràng là thứ ngăn cản trạng thái vô minh và khổ đau của bạn. Vậy, vị Phật nổi loạn này ra sao? Một kẻ gây rắc rối với vài phần anh hùng. Vị Phật nổi loạn là kẻ phản bội khiến bạn bật công tắc cảnh giác từ trạng thái ngủ sang thức. Điều này nghĩa là bạn có sức mạnh đánh thức cái tôi đang mơ, kẻ đang mạo danh bạn. Bạn có phương pháp để cởi dây trói khổ đau và mở khóa vô minh. Bạn là quán quân của tự do. Một cách tuyệt đối, nhiệm vụ của vị Phật nổi loạn là thúc giục cuộc cách mạng trong tâm.

NHỮNG VỊ PHẬT BÌNH THƯỜNG

Cuốn sách này nói về hành trình đến tự do, được miêu tả bởi vị Phật lịch sử, Ngài Thích Ca Mâu Ni, cách đây hơn hai mươi sáu thế kỷ. Có nhiều câu chuyện đẹp đẽ và ý nghĩa về sự đản sinh, cuộc đời và cách thức Ngài đạt tới giác ngộ. Một số coi Phật là một người đàn ông bình thường, đã sống một cuộc đời phi thường. Số khác lại xem Ngài là Siêu nhân về tâm linh, một bậc thánh, với hành động cho thấy cách thức mà những người bình phàm có thể đạt đến tự do tối thượng mà Ngài đã tìm thấy.

Thực sự, các yếu tố cơ bản trong thời trẻ của Đức Phật không khác biệt lắm với chúng ta, ngoại trừ sự thật là Ngài đến từ gia đình hoàng gia giàu có trong khi phần lớn chúng ta thì không. Tuy nhiên, về cơ bản, điều mà chúng ta có thể thấy khi nhìn vào thời trẻ của Đức Phật Thích Ca – khi Ngài đơn giản được biết tới là Tất Đạt Đa [Siddhartha] – là sự đấu tranh vì độc lập và tự do của một thanh niên trẻ chống lại quyền hành của cha mẹ và cộng đồng. Ở một cấp độ nào đó, nó là câu chuyện cổ tích điển hình về một cậu bé con nhà giàu, chạy trốn khỏi gia đình:

Thái tử Tất Đạt Đa, vị Phật tương lai, sinh ra là con trai duy nhất của nhà vua và hoàng hậu bộ tộc Shakya, một vương quốc ở miền bắc Ấn Độ. Cậu sống một cuộc đời xa hoa, được bảo vệ và kiểm soát chặt chẽ bởi cha mẹ, những người mong đợi một ngày kia, hoàng tử trẻ sẽ kế vị ngai vàng. Cậu tận hưởng những đặc quyền lớn lao và niềm vui vẻ mà bạn có thể tưởng tượng ra – cung điện tuyệt vời, quần áo đẹp đẽ, người hầu và các bữa tiệc linh đình với những người nổi tiếng. Nhưng cuối cùng, Tất Đạt Đa không hài lòng với cuộc đời chỉ có tài sản vật chất, địa vị xã hội và quyền lực chính trị như vậy. Cậu mong mỏi tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống khi đối mặt với những điều đang chờ đợi tất cả chúng ta: bệnh tật, tuổi già và cái chết. Cậu vật lộn với việc hoàn thành những mong ước của cha mẹ, nhưng cuối cùng, đã quyết định phải sống theo cách riêng. Vào một đêm nọ, cậu rời bỏ cung điện, để lại đằng sau những lạc thú và sự bảo vệ để đến một nơi xa lạ, một đích đến mà cậu vẫn chưa tìm ra.

Nếu từ câu chuyện cổ này trở về với thành phố New York hôm nay, chúng ta sẽ có một câu chuyện của nước Mỹ hiện đại:

Một cặp vợ chồng giàu có và quyền lực đang mong chờ đứa bé đầu tiên. Hiểu được những hiểm nguy và khó khăn trong thế giới hiện đại, họ thề sẽ sử dụng tài sản và những mối quan hệ để giúp cuộc đời cậu bé an bình và dễ dàng nhất có thể. Thậm chí trước khi cậu chào đời, cậu đã được đăng ký vào vườn trẻ hạng nhất. Cậu được đặt một cái tên mỹ miều, phản ánh sự vĩ đại của dòng họ, nhưng bạn bè đều gọi cậu là Sid. Cậu lớn lên trong giới thượng lưu New York, tận hưởng mọi tiện nghi. Cha mẹ lên kế hoạch trước những đích đến cho cậu và thậm chí, họ tưởng tượng việc cậu kết hôn với con gái thượng nghĩ sĩ vùng …

Chúng ta sẽ chẳng ngạc nhiên khi biết rằng, cuối cùng Sid quyết định tham gia vào một ban nhạc rock, xách ba lô tới Alaska, hay chỉ ngón tay cái của cậu ra đường để xem cuộc đời sẽ đưa cậu đến đâu. Điều tương tự cũng đúng với bất cứ người trẻ hay một trái tim đầy nhiệt huyết nào. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, bình thường hay khác lạ, chúng ta đều muốn tìm ra con đường riêng. Chúng ta muốn tìm thấy ý nghĩa tối thượng của cuộc đời.

Từ lịch sử, chúng ta biết rằng Hoàng tử Tất Đạt Đa đã thành công trong hành trình tìm kiếm, nhưng chúng ta không thực sự biết về người bạn hiện đại, cậu Sid. Chúng ta đều mong những điều tốt nhất đến với cậu. Vấn đề ở đây là, vào lúc ra đi, không ai trong số họ biết gì về tương lai. Cả hai đều rất mạo hiểm, từ bỏ sự an toàn và thế giới quen thuộc để dấn thân vào một miền xa lạ. Nhưng việc Sid dám mạo hiểm như vậy cũng rất tự nhiên như việc Tất Đạt Đa rời bỏ hàng rào cung điện. Sự thôi thúc hướng về tự do là một phần quan trọng trong bản chất của chúng ta; nó không phải là một khía cạnh riêng biệt của những con người đặc biệt hay những vị mang y áo từ cách đây rất lâu hay ở vùng đất xa xôi. Rõ ràng, “yêu-tự do” là một cụm từ phổ biến để miêu tả tính cách Mỹ - hay chí ít, đó là điều mà chúng ta thường nghe trên đài báo – nhưng hãy đi dạo trên những con phố của bất kỳ thành phố hiện đại nào, và bạn sẽ tìm thấy một tinh thần tương tự, đặc biệt là với giới trẻ.

Giới trẻ Mỹ cũng nhiệt thành đóng góp vào tính cách yêu-tự do này. Ngoài những người dân bản địa của Bắc Mỹ, phần lớn người dân ở đây là người mới đến từ châu Âu, Á hay Phi. Rất nhiều người trong số chúng ta đã mất đi gốc rễ đạo đức, và một số có lẽ đã quên mất hoàn toàn (và đơn giản tin rằng “Tôi là một người Mỹ”), xét ở một khía cạnh nào đó, điều tốt đẹp và độc đáo nhát về nước Mỹ chính là tổ tiên toàn cầu, tinh thần tiên phong và tính cách độc lập mà cả thế giới đã đóng góp.

Nước Mỹ hỗn tạp này đã trở thành nhà của những kẻ tiên phong, nhà phát minh, kẻ suy nghĩ tự do và những người đầy mơ mộng, cũng như những kẻ giáo điều và đạo đức. Những họa sĩ và nhạc sĩ hiện đại đi khắp các lối ngầm cùng với chủ nhà băng và công nhân. Mọi người đều được chào đón. Các cuộc hội họp gia đình ở Mỹ chứa đầy những tia lửa – từ những tia lửa trong nhà bạn đến những thứ diễn ra trên sân khấu quốc gia và được ghi lại bởi CNN và Entertainment Weekly. Nhưng khi những tia lửa từ sự cọ xát các thứ đối lập bùng cháy trong bầu không khí cởi mở, nó tạo ra một sự khác biệt. Sau đó, thay vì những cọ xát bình thường, chúng ta nhảy múa, điều tạo ra một năng lượng sáng tạo lớn lao. Bằng cách thách thức các giới hạn, đánh mạnh vào vỏ bọc của những quan niệm cũ, điều trước kia là không thể tưởng tượng, lại trở thành chuẩn mực mới. Ví dụ, không lâu trước đây, không ai nghĩ tới việc gõ nhẹ vào công tắc và đèn được bật, chứ đừng nói gì việc xem những hình ảnh xa xôi trên ti-vi hay lướt web. Thậm chí vào những năm 1960, chúng ta rất ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông bước đi trên mặt trăng từ phòng khách của chúng ta, điều bất ngờ dường như khá nhỏ bé.

ĐẾN ĐÍCH

Giống như những nhà khoa học đang không ngừng nỗ lực để mở ra các bí mật của thế giới bên ngoài, nhằm khám phá bản chất của sự thực, Tất Đạt Đa nghĩ đến việc mở ra những bí mật của thế giới bên trong của tâm. Khi rời bỏ cung điện, cậu để lại đằng sau người vợ trẻ, con trai và cuộc sống xa hoa. Cậu quyết tâm chế ngự sự ngu dốt và tìm ra chân lý. Cậu đến khu rừng mà chẳng có mái che trên đầu, không thức ăn và không ai bảo vệ.

Lúc đó, xã hội Ấn Độ đang trong một thời điểm thú vị. Cấu trúc xã hội rất phức tạp. Hệ thống đẳng cấp quyết định vị trí của bạn trong xã hội, trách nhiệm của bạn trong đời, nghề nghiệp và vị trí tâm linh. Tất cả đều này được thiết lập bởi hoàn cảnh ra đời. Mặt khác, nó cũng là thời đại rất thú vị. Học giả và các triết gia không ngừng tham gia vào những cuộc tranh luận lớn, điều đã tạo ra rất nhiều truyền thống tâm linh đầy ganh đua. Những nhóm thanh niên bắt đầu treo mình trong rừng, gia nhập nhóm này hay nhóm khác, thứ tồn tại bên ngoài xã hội. Tất Đạt Đa cũng đến và tu học với hai trong số những vị thánh nổi tiếng nhất trong rừng. Cậu nhanh chóng vượt trội sự hiểu của thầy và sau đó gia nhập một nhóm năm hành giả khổ tu. Quyết tâm đạt tới mục tiêu hơn bao giờ hết, cậu từ bỏ mọi lạc thú. Cậu trải qua những thực hành đau đớn của pháp tu khổ hạnh, bao gồm nhịn đói, với ý định sẽ vượt khỏi thân vật lý và làm cạn kiệt tham luyến của tâm. Sau sáu năm thực hành như vậy, Tất Đạt Đa gần chết. Lúc đó, cậu rời bỏ niềm tin rằng con đường bần cùng như vậy sẽ dẫn cậu đến tự do. Cậu quỵ ngã bên bờ một dòng sông.

Tất Đạt Đa đã rất gần mục tiêu, nhưng cậu không biết điều này. Một cô gái trẻ mang theo bát sữa gạo đi ngang qua đã cúng dường cậu món ăn này. Cậu chấp nhận, phá vỡ việc nhịn ăn sáu năm. Thấy vậy, năm anh em đồng tu khổ hạnh nghĩ rằng Tất Đạt Đa đã từ bỏ giới luật. Vô cùng giận dữ, họ thề sẽ không nói chuyện với cậu và bỏ đi. Tất Đạt Đa quán chiếu về hoàn cảnh trong khi dần hồi phục sức khỏe. Cậu nhận ra rằng cuộc đời với việc chìm đắm trong cung điện cũng như lối sống khổ hạnh trong rừng đều không phải là con đường chân chính dẫn tới tự do. Chúng đều là con đường cực đoan, và bám chấp với thái cực như vậy là một chướng ngại. Con đường thực sự nằm ở giữa. Nhận ra điều này, cậu sẵn sàng cho nỗ lực cuối cùng. Cậu ngồi trên nệm cỏ bên dưới tán lá của một cái cây và thề rằng sẽ ngồi đó cho tới khi nhận ra chân lý về tâm và thế giới.

Tất Đạt Đa thiền định trong bốn mươi chín ngày, và ba mươi lăm tuổi, cậu đạt được tự do đang tìm kiếm. Tâm cậu trở nên rộng lớn và cởi mở. Cậu nhận thấy sự thật về khổ đau của mọi chúng sinh và nguồn gốc của khổ đau đó. Cậu thấy tự do là điều mà mọi chúng sinh có thể đạt tới, và cậu cũng biết cách thức để họ đạt được. Cậu trở thành Đức Phật, Bậc Giác ngộ, và giảng dạy cho bất cứ ai đến gặp trong bốn mươi lăm năm tiếp theo. Nhiều người nương theo chỉ dẫn của Phật. Họ đạt được tự do riêng, và dòng truyền thừa giác ngộ bắt đầu.

Nhưng đó là quá khứ, và bây giờ là hiện tại. Cậu Sid ra sao? Những giấc mơ của cậu thế nào? Nếu cậu biết nơi cậu muốn đến, điều cậu cần là bản đồ và ai đó từng ở đó để có thể nói chuyện. Rất nhiều con đường trông giống nhau và thật dễ dàng để lạc đường. Vài con đường thay đổi hướng; số khác thì mất hút. Sid có thể hướng về Alaska và kết thúc ở một câu lạc bộ blue ở Chicago hoặc ở vùng ngoại ô với một vợ và ba đứa con. Cậu có thể trở thành một tiểu thuyết gia, một nhà khoa học hay tổng thống Hoa Kỳ. Hoặc cậu có thể bắt đầu một biến chuyển mới, một cuộc cách mạng về tâm, và truyền cảm hứng cho thế hệ mới. Có vô số khả năng cho mỗi người trong số chúng ta.

Trích: Vị Phật nổi loạn, Dzogchen Ponlop Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2021(Xem: 3705)
Nữ diễn viên nhìn vào trong hồ nước và trông thấy một khuôn mặt tuyệt vời, hàm răng hoàn hảo và một thân hình xứng hợp. Cô hỏi: “Chao ơi, sao tôi lại không thành một tài tử?” Con nhái nói: “Tôi có thể làm cho cô thành minh tinh.” Cô diễn viên la lên: “Mi là ai vậy?”
12/06/2021(Xem: 4599)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Ba (June 08) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Tikabigar và Kutitya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 377 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiên mặt (Mỗi phần quà trị giá: 15usd.75cents >< 377 hộ = . Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
12/06/2021(Xem: 5057)
Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
10/06/2021(Xem: 14451)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
09/06/2021(Xem: 5376)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 4883)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 5705)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 5836)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
07/06/2021(Xem: 13538)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14139)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]