Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

09/05/201309:57(Xem: 9219)
Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

THẾ GIỚIVẬT CHẤT VÀ PHI VẬT CHẤT
Hoang Phong

Chúngta sống trong một thế giới gồm có hai thể dạng :vậtchất và phi vật chất. Tuy mang hai thể dạng khác biệtnhau nhưng thật ra thế giới ấy khá đồng nhất mà Phậtgiáo gọi chung là thế giới luân hồi hayta bà. Tuy thế người ta lại thường tách rời hai thểdạng ấy và xem chúng thuộc vào hai « thế giới » riêng biệt: thế giới vật lývà thế giới tâm linh,còn gọi là thế giới vật chấtvà thế giớitinh thần. Sự phân biệt sai lầm hay thiếu chínhxác đó còn có thể trở nên tệ hai hơn khi người ta tưởngtượng ra một thế giới tâm linh phi vật chất biệt lậpbên ngoài tâm thức gồm có ma quỷ, thần linh, thiên đưòng,địa ngục..., và không ngờ rằng cái thế giới tâm linh phivật chất ấy cũng có thể đang chuyển động trong tâm thứccủa chính mình.

Bàiviết này nhắm vào chủ đích xác định hai thể dạng vậtchất và phi vật chất trong cái thế giới mà chúng ta đangsống dưới các khía cạnh triết học và khoa học để làmđề tài suy tư và để so sánh với quan điểm của Phật giáo,và sau cùng sẽ rút tỉa những gì thiết thực và hữu íchgóp thêm vào việc tu tập của một người Phật tử.

Định nghĩavề thế giới vật chất và phi vật chất

Trướchết cũng nên định nghĩa thế nào là vật chất và phi vậtchất. Đối với thế giới vật chất, có thể ta yên trínghĩ rằng khỏi cần phải định nghĩa hay tim hiểu gì cảvì cái thế giới đó đang hiện hữu sờ sờ trước mắtvà bất cứ ai cũng biết. Tuy nhiên cái thế giới ấy thậtra đã bị thu hẹp rất nhiều bởi khả năng cảm nhận củacác cơ quan giác cảm, một người cận thị sẽ không nhìnthấy được các vật thể ở xa chẳng hạn. Tuy nhiên khoahọc đã góp phần không nhỏ làm gia tăng khả năng hiểu biếtcủa con người về thế giới vật chất bằng các dụng cụnhư kính hiển vi, viễn vọng kính hoặc các máy móc đo đạtkhác, và từ đó đã mở rông thêm cái thế giới vật lýchung quanh, kể cả việc theo dõi bằng máy móc sự vận hànhcủa tâm thức dưới một một vài khía cạnh nào đó.

Nhữnggì vượt ra ngoài « thế giới vật chất » thì chúng ta gọichung là « thế giới phi vật chất » bao gồm tất cả nhữnghiện tượng không hình tướng, không màu sắc, không âm thanhvà không sờ mó được, có nghĩa là vượt khỏi khả năngcảm nhận của ngũ giác. Vậy thế giới ấy gồm có nhữnggì ? Nói một cách tổng quát thì tất cả mọi hiện tượng,dù là vật chất hay phi vật chất trong thế giới này đềuđược sinh khởi hay tạo tác bằng cách lệ thuộc vào nhiềuđiều kiện. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma phân chia các hiện tượngtrong thế giới luân hồi thành ba thể loại : các hiện tượnghình tướng, các hiện tượng tri thức và các hiện tượngkhông phải hình tướng cũng không phải tri thức. Các hiệntượng hình tướng gồm các vật thể có hình dáng, màu sắc,v.v..., có thể nhìn thấy bằng mắt hay sờ bằng tay. Các hiệntượng tri thức thì không có hình thể, không màu sắc...,nói chung là không có đặc tính vật lý và không thể đo đạtdược bằng dụng cụ. Nhóm thứ ba gồm các hiện tượng khônghình tướng cũng không tri thức, tức là các khái niệm mangtính cách trừu tượng, chẳng hạn như nghiệp (karma),thời gian, không gian, vị thế, thứ tự, các con số, cá thể,sự sống, vô thường, sự sinh, già nua... Theo cách phân loạitrên đây thì thể loại thứ nhất thuộc vào lãnh vực vậtchất, hai thể loại thứ hai và thứ ba thuộc vào lãnh vựcphi vật chất.

Tómlại, tất cả những gì đang biến động trong tâm thức, kểcả những khái niệm của sự hiểu biết dùng để xác địnhnhững hiện tượng bên ngoài tâm thức đều thuộc vào thếgiới phi vật chất. Những xúc cảm như lo âu, sợ sệt, thươngyêu, giận dữ, khổ đau, hạnh phúc..., là những thành phầncủa thế giới phi vật chất. Đồng tiền giấy hay đồngtiền bằng vàng ta đang cầm trên tay là vật chất, nhưng giátrị của chúng có tính cách quy ước thì lại thuộc vào lãnhvực phi vật chất. Những cơn ác mộng trong giấc ngủ haynhững ám ảnh khiếp đảm trong tâm thức một người bịbệnh tâm thần hoặc những ảo giác thích thú của một ngườidùng ma túy... đều thuộc vào « thế giới phi vật chất ».

Theocách phân loại của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như được trìnhbày trên đây thì thời gian và không gian thuộc vào thế giớiphi vật chất, chúng không có hình tướng và cũng không phảitri thức. Vậy thời gian và không gian thật sự là gì ? Câuhỏi có thể làm cho nhiều người sửng sốt vì số đôngtrong chúng ta vẫn yên trí rằng thời gian và không gian lànhững gì quá « đương nhiên » và bất cứ ai cũng biết.Nhưng thật ra cho đến nay chưa có một triết gia hay một khoahọc gia nào hiểu được thời gian và không gian là gì. Từthời cổ đại cho đến nay đã có không biêt bao nhiêu triếtgia và khoa học gia thay nhau đưa ra các giả thuyết và kháiniệm về không gian và thời gian. Nhà toán học Hy Lạp Euclide(~450 ~380 trước tây lịch) đề nghị không gian có ba chiều,và gần đây hơn thì nhà bác học Albert Einstein (1879-1955) gánthêm cho cái không gian toán học của Euclide một chiều nữalà thời gian. Nhà bác học Isaac Newton (1643-1727) cho rằng khônggian có tính cách tuyệt đối, nhà bác học Gottfried Liebniz(1646-1716) thì khẳng định không gian chỉ có tính cách tươngđối, và nhà toán học kiêm vật lý và triết gia Henri Pointcaré(1854-1912) lại cho rằng hình học không gian chỉ đơn giảnlà một quy ước mà thôi. Đối với thời gian thì lại cònphức tạp hơn nữa vì thời gian có tính cách « trừu tượng» hơn không gian rất nhiều. Tóm lại, những gì vừa đượctrình bày cho thấy chúng ta có xu hướng tin vào những sựkiện có vẻ như hiển nhiên được cảm nhận qua kinh nghiệmthường nhật của các giác quan, nhưng thực sự thì chúngkhông quá hiển nhiên như chúng ta tưởng.

Đọc thêm: ●TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO - Hoang Phong

Sựcấu hợp giữa thân xác và tâm thức :

Thânxác vật chất còn được kết hợp với một thành phần vôcùng quan trọng nữa, đó là tâm thức. Kính sách nói rằngcá thể con người có ba cửa ngõ : đó là thân xác, ngôn từvà tâm thức. Có thể không đến nỗi quá khó khi cần khéphai cửa ngõ thân xác và ngôn từ để cho chúng nghỉ ngơi,tuy nhiên đối với cửa ngõ tâm thức thì hết sức gay go.Thí dụ một người ngồi thiền có thể giữ cho thân xácbất động, miệng khép lại, nhưng tâm thức thì không mấykhi chịu nghỉ ngơi. Vì thế tâm thức là thành phần mà ngườitu tập khó nắm bắt và chủ động nhất. Sau đây là vàilời giảng liên quan đến tâm thức của một đại sư Tâytạng là ngài Dilgo Khyentsé Rinpoché (1910-1991), rất uy tín đốivới giới Phật tử Tây phương :

«Tâmthức đi ngang thân xác giống như một người khách bướcvào một gian nhà. Xuyên qua thân xác ấy, tâm thức nhận biếtđược hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác. Khi tâm thứcra đi thì thân xác sẽ hóa thành xác chết. Nó sẽ không cònquan tâm đến cái đẹp hay cái xấu, lời lăng nhục hay ngợikhen, không thích thú khi được mặc quần áo lụa là, cũngkhông đau đớn khi bị hỏa táng. Trong tình trạng đó, thânxác là một vật thể không khác gì đất và đá. Khi thânxác và tâm thức tách rời nhau, ngôn từ giữ một vị trítrung gian giữa hai thể dạng cũng biến mất, giống như mộttiếng vang im bặt. Giữa ba thành phần thân xác, ngôn từ vàtâm thức, thì tâm thức quan trọng hơn hết, tu tập Phậtpháp (Dharma) chính là cách biến cải tâm thức ».(tríchtừ quyển Le trésor du coeur des êtres eveillés, Dilgo KhyentséRinpoché, Sueil, 1996)

Tahiểu rằng tâm thức không phải là thân xác, tuy nhiên ta khôngthể tách rời nó khỏi thân xác. Mỗi khi ta muốn nắm bắtnó thì ta cũng không biết nó ở đâu. Nếu muốn tìm hiểuvà xác định nó thì ta cũng không biết nó thật sự là cáigì. Nó không hình tướng, không màu sắc, không hàm chứa mộtđặc tính vật chất nào. Ngài Long Thụ thì xem tâm thức đơngiản chỉ là một danh xưng.

Nhữnggì vừa nêu lên cho thấy việc tìm hiểu tâm thức rất khóvà việc tìm hiểu ấy giữ một vị trí quan trọng trong việctu tập Phật pháp. Tâm thức sẽ được trình bày trong cácphân đoạn dưới đây liên quan đến ngũ uẩn.

Sựchuyển tiếp liên tục giữa các thể dạng vật chất và phivật chất :

Hầuhết chúng ta đều hiểu là thân xác một cá thể con ngườiđược hình thành từ sự kết hợp giữa tinh trùng của chavà noãn cầu của mẹ. Tuy nhiên ta vẫn có thể thắc mắctại sao lại xảy ra sự kết hợp đó để làm phát sinh rasự hiện hữu của ta hôm nay ? Tại sao chỉ có một con tinhtrùng nào đó trong số hàng triệu tinh trùng do cha ta phóngra lại chui lọt vào một cái noãn cầu của mẹ ? Đấy làmột biến cố gần như vô nghĩa so với trùng trùng điệpđiệp các hiện tượng khác đang chuyển động trong thế giớinày, tuy nhiên đối với ta biến cố đó có thể là nguồngốc của cả một vũ trụ vì lý do là sự hiện hữu củavũ trụ này phát sinh tùy thuộc vào sự cảm nhận của chínhta. Dù cho ta không quan tâm và thắc mắc về biến cố đóđi nữa, nhưng các khoa học gia, triết gia, tư tưởnggia, các nhà thần học... đã đưa ra không biết bao nhiêu triếtthuyết để cố gắng giải thích các hiện tượng trong thếgiới này, trong số đó có sự kết hợp giữa một tinh trùngvà một cái noãn cầu.

Đốitượng của khoa học giới hạn trong thế giới vật chấtvà các thể dạng biến động của thế giới đó, vì thếquan điểm của các khoa học gia cũng trở nên hạn hẹp hơnvà thông thường thì họ chỉ nêu lên các thuyết chính yếunhư ngẫu biến (hasard), hoặc thuyết quyết định (déterminisme)liên quan đến quy luật nguyên nhân và hậu quả. Các triếtgia thì thả cho sự suy luận tung hoành mạnh hơn và đưa ranhiều triết thuyết đa dạng khác, chẳng hạn như các thuyếtđịnh mệnh (fatalisme), thuyết tất yếu (nécessitarisme), thuyếtvô định (indéterminisme – một thuyết chủ trương ngượclại với thuyết quyết định), thuyết hỗn độn (chaos), thuyếttự chủ (liberté), thuyết sáng tạo hay tạo hóa (créationisme)v.v...

Ngườitu tập không nên rơi vào những cái bẫy như thế, nếu rơivào đó thì cũng giống như một con hổ vướng vào lưới,một con nai rơi xuống một cái hố ngụy trang, hay một concá chui vào rọ. Thay vì đi tìm sự giải thoát thì ta lạirơi vào sự vướng mắc. Đức Phật luôn luôn cảnh giác cácđồ đệ của Ngài không được tham gia vào những biện luậnvô bổ và thuần lý như thế. Trước những câu hỏi đượcnêu lên thuộc vào các lãnh vực ấy thì Đức Phật giữ yênlặng và không trả lời. Thật ra những biện luận siêu hìnhtheo lối đó chỉ là cách nhào nặn một vài ý tưởng dựatheo kinh nghiệm và sự hiểu biết cá nhân của mỗi triếtgia để trình bày dưới những hình thức phức tạp và cầukỳ. Nếu ta cố tình tham gia vào đấy để tự nhào nặn tưduy của mình thì cũng rất có thể ta sẽ khám phá ra mộtthế giới muôn màu và muôn vẻ, những thật ra thì cái thếgiới ấy rỗng tuếch. Phần lớn các triết thuyết không hàmchứa điều gì thiết thực, đấy là chưa nói đến một sốtriết thuyết đã từng làm phát sinh những chủ nghĩa tai hạigây ra không biết bao nhiêu đỗ vỡ và đau thương cho nhânloại.

Vìvậy trước sự kiện một con tinh trùng này chui vào một cáinoãn cầu kia để làm phát sinh ra sự hiện hữu của ta hômnay thì ta phải hiểu như thế nào ? Tất nhiên là khó cho tatin có một vị thánh nhân hay một vị thần linh nào đó ngồibên cạnh giường cha me ta để chờ đúng lúc thuận tiệnmà tuyển chọn cho ta một con tinh trùng và một cái noãn cầu.Cha mẹ ta cũng không nghĩ đến việc ấy vì họ còn bận côngviệc của họ, dù cho họ có muốn thì cũng không làm được.Riêng phần ta thì lúc đó ta « chưa » hiện hữu vậy làmthế nào để tự chọn cho ta.

Thóithường ta chỉ sống xuyên qua những kinh nghiệm của giáccảm liên quan đến thế giới vật-chất và không hề quantâm đến những gì thuộc vào thế giới phi-vật-chất. Chúngta hãy lấy thí dụ về hình ảnh một đứa bé cắp sách đếntrường, nếu trước kia đứa bé không chịu cố gắng họchành thì hôm nay ta sẽ không biết đọc ? Hình ảnh đứa béđã hoàn toàn thuộc vào thế giới phi-vật-chất, tuy nhiênta vẫn cảm thấy có một sự liên tục nào đó giữa đứabé và sự hiện hữu của ta hôm nay. Hành động của đứabé trước đây liên hệ đến những gì mà ta đang thừa hưởng.

Sởdĩ ta cảm nhận được một sự liên tục nào đó trong quátrình hiện hữu chính là nhờ vào tâm thức, và tâm thứcthì nhờ vào sự hoạt động của não bộ. Tuy nhiên ta khôngthể nào bảo rằng một cá thể chỉ hiện hữu liên tụctrong các giai đoạn mà não bộ hoạt động, ngoài các giaiđoạn đó ra thì sự hiện hữu của ta không có. Tất cảcác giai đoạn như phôi, thai nhi, ấu nhi, vị thành niên, trưởngthành, già nua, bệnh tật... đều dự phần vào quá trình hìnhthành và hủy hoại của một cá thể, tuy nhiên khả năng ýthức được sự liên tục giữa các thể dạng ấy chỉ cóthể phát hiện trong thời gian mà não bộ hoạt động bìnhthường. Trong các giai đoạn phôi, thai nhi thì não bộ chưacó hoặc chưa hoạt động hữu hiệu, cũng thế trong các trườnghợp não bộ bị chấn thương, đứt mạch máu não, hôn mêhay là trường hợp bị bệnh tâm thần, bệnh alzheimer thìnão bộ không còn hoạt động hữu hiệu nữa. Mặc dù chưacó não bộ hay não bộ không hoạt động hữu hiệu thì sựliên tục trong quá trình hiện hữu của một cá thể vẫntiếp tục không gián đoạn. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gọi đólà dòng tiếp nối liên tục (continuum) của tri thức, dòngliên tục đó không mang tính cách khởi thủy và nó kéo dàixuyên qua các chu kỳ hiện hữu.

Sựchuyển tải của nghiệp :

Phầntrình bày trên đây giải thích về sự liên tục của cácthể dạng vật-chất và phi-vật-chất của một cá thể giớihạn trong một chu kỳ hiện hữu duy nhất. Tuy nhiên các thểdạng hiển hiện liên tục của một cá thể cũng chuyển tiếpvà liên kết với nhau từ chu kỳ này sang chu kỳ khác. Nghiệpcũng theo đó mà hoán chuyển theo, từ chu kỳ này sang chu kỳkhác.

Nếusự tương quan giữa nghiệp và quả tương đối dễ nhậnthấy xuyên qua các thể dạng thuộc chung một chu kỳ, thídụ như trường hợp đứa bé đến trường – người lớnbiết đọc, thì sự hoán chuyển của nghiệp từ chu kỳ nàysang chu kỳ khác có vẻ khó nhận thấy hơn. Chúng ta đềuhiểu rằng quy luật nguyên nhân – hậu quả có tính cáchvững chắc và toàn cầu, tác động trên tất cả các thểdạng vật-chất và phi-vật-chất, xuyên qua không gian và thờigian, vì thế nó không thể bị hạn chế và chỉ có giá trịtrong giới hạn của mỗi chu kỳ. Nếu quả chưa phát sinh trongchu kỳ hiện tại thì nó sẽ phát sinh trong chu kỳ tiếp theo,hoặc trong những chu kỳ xảy ra thật xa sau này khi đã hộiđủ cơ duyên, tức các điều kiện thích nghi. Trên phươngdiện « kỹ thuật » thì sự liên hệ giữa nghiệp và quảxảy ra như thế nào ? Nghiệp được chuyển tải ra sao từmột thể dạng này sang một thể dạng khác, từ chu kỳ nàysang chu kỳ khác ?

Nghiệplà một hành động và tất cả mọi hành động đều đểlại dấu vết. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng rằng những dấuvết do nghiệp tạo ra có thể hình dung như những « vết hằn» in đậm trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức. Dòngtiếp nối ấy là cơ sở chuyển tải của nghiệp. Nhờ vàomột thể dạng nào đó một cá thể hành động và tạo ranghiệp, nghiệp lưu lại dấu vết trên dòng tiếp nối. Cũngnhư tất cả các hiện tượng khác, thể dạng đó không thoátkhỏi các nguyên lý vô thường và duyên sinh và sẽ biến đổikhi các điều kiện tạo tác ra nó đổi thay. Tuy nhiên vếthằn của nghiệp trên dòng tiếp nối vẫn còn nguyên vẹncho đến khi gặp được những điều kiện hay cơ duyên thíchnghi để phát hiện thành quả trùng hợp với một thể dạngmới của cá thể ấy. Sự phát hiện đó có thể xảy ra trongthể dạng kế tiếp hay các thể dạng khác thuộc vào cácchu kỳ khác... Sự cố gắng học hành của một đứa bé trướcđây hôm nay giúp cho ta biết đọc. Những xúc cảm phát sinhtừ những gì ta đang đọc và có thể cả những hành độngcụ thể phát sinh từ những xúc cảm đó sẽ làm phát sinhra quả trong một thể dạng tiếp theo sau, thuộc vào chu kỳhiện hữu này hay trong những chu kỳ hiện hữu xa hơn và trùnghợp với một thể dạng « khác » của chính ta trên dòngtiếp nối.

Sựphối hợp giữa tinh trùng và noãn cầu là một cơ duyên giúpcho thể dạng phi-vật-chất cuối cùng trong quá trình hiệnhữu trước đây của ta hiển hiện trở lại thành một thểdạng vật-chất khi tinh trùng phối hợp với noãn. Sự thamgia của cha mẹ ta vào biến cố đó chỉ là những điều kiệnphụ thuộc còn gọi là cơ duyên. Nhìn trên một khía cạnhkhác, đó là cách mà cha mẹ ta tạo nghiệp mới cho mình vàđồng thời nhận lãnh hậu quả phát sinh từ những nghiệpkhác trong quá khứ của họ. Sinh ra ta họ phải nuôi nấngvà dạy dỗ, và sau này nếu ta trở thành một người con thôngminh và hiếu thảo hay là một người con ngu đần và khuyếttật... thì đều tùy thuộc một cách « hợp lý » vào nghiệptrước đây của cha mẹ ta và đồng thời của ta nữa. Tấtcả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tương liên với nhau,nghiệp của cha mẹ ta và ta liên kết với nhau một cách chặtchẽ. Không có một sức mạnh siêu nhiên nào chen vào nhữngbiến cố ấy để sắp xếp, xét xử hay thưởng phạt chamẹ ta và ta cả.

Nếusuy luận xa hơn nữa và trên một bình diện khác, thì ta sẽhiểu rằng nhờ vào biến cố một tinh trùng phối hợp vớimột noãn cầu mà ta được hưởng gia tài ADN (DNA) từ nhữnggien di truyền của cha và mẹ. Sự di truyền đó phù hợp vớinghiệp của ta trong quá khứ, có nghĩa là ta có thể sinh racao lớn hay thấp lùn, xinh đẹp hay xấu xí, nhân từ hay hungdữ, khoẻ mạnh hay khuyết tật... Và nếu tiếp tục nhìnxa hơn nữa thì cha mẹ ta cũng thừa hưởng những gì từ ôngbà ta phù hợp với nghiệp của họ. Sự lệ thuộc như vừakể tiếp tục mở rộng ra cho đến gia tài di truyền ADN chungcủa chủng loại, và xa hơn nữa là của tất cả chúng sinhvà sự sống, sự lệ thuộc đó buộc chặt ta với môi trường,với thế giới vật-chất và phi-vật-chất..., có nghĩa làvới tất cả những gì đang chuyển động trong vũ trụ này....

Đọc thêm: ●TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO - Hoang Phong

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4940)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5087)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4435)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4696)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3603)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5054)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]