Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Đường Xa Lìa Thế Tục

15/03/201320:57(Xem: 7526)
Con Đường Xa Lìa Thế Tục

CON ĐƯỜNG XA LÌA THẾ TỤC
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ

http://thuvienhoasen.org/images/upload/conduongxaliathetucVai trò của Phật giáo đối với vấnđề tính dục tùy thuộc bối cảnh và trình độ hiểu biết Đạo Pháp của người Phật tử.Kỷ cương giới luật ghi chép trong kinh sách được xem như trực tiếp xuất phát từnhững lời giáo huấn của Đức Phật, do đó thường được áp dụng chung cho tất cả cáctông phái trừ một vài ngoại lệ đối với Phật giáo Nhật bản. Tại quốc gia này sựgiữ gìn giới luật quy định cho người xuất gia không mấy khi được tôn trọng và ngàynay một số nhà sư có gia đình, họ vừa là người xuất gia vừa là học giả. Trong Luật Tạng(Vinaya) có một phân đoạn mang tên là Pratimoksha(Lời nguyện giảithoát mang tính cách cá nhân) trình bày chi tiết các giới luật quy định chungcho cư sĩ , cho các sa-di, các tỳ-kheo, cả nam lẫn nữ. Phật tử tại gia có thể nguyệngiữ năm giới luật, trong số này có ba giới luật liên quan đến thân xác : khôngtước đoạt sự sống, không tự ý chiếm giữ những gì không phải của mình, không thựcthi những hành động tính dục thiếu hạnh kiểm, nguyên văn giới luật thứ ba nhưsau : "tôi nguyện giữ giới không thựcthi hành vi sai lầm về lạc thú tính dục"

Kính trọng mình và ngườikhác

Bất cứ ai trong xã hội cũng không bị bắt buộc phải tuânthủ giới luật trên đây, thế nhưng khi đã nguyện giữ giới thì phải giữ một cáchnghiêm chỉnh : hành động giữ giới mang tính cách cá nhân, một sự tự nguyện. Phậtgiáo không nêu lên một tác phong tính dục chính xác nào để cấm đoán, nếu có thìđấy là những hành vi sai trái mang lại khổ đau cho người khác. Tại Á châu, giớiluật liên quan đến tính dục được mô tả rõ ràng hơn các nơi khác, chẳng hạn như sựrăn cấm ngoại tình, dầu sao đấy cũng chỉ là cách giới hạn bớt tính cách quá rộngrãi của giới luật về tính dục vì giới luật này chỉ răn dạy sự kính trọng chínhmình và người khác. Giới luật đó không hề ám chỉ sự đồng tính luyến ái, thật vậyđồng tính luyến ái được chấp nhận khá dễ dàng tại các quốc gia Đông nam Á.

Thế nhưng các hành động tính dục bị cấm đoán triệt để nơichùa chiền, sự cấm đoán đó được quy định tùy thuộc vào hai giai đoạn tu tập : giaiđoạn sa-di và giai đoạn tỳ-kheo đã thụ phong. Người sa-di cả nam lẫn nữ phải tuânthủ mười giới luật, trong số này có giới luật bắt buộc phải giữ gìn sự trong trắng("đoạn dục" - tứckhông được thực thi các hành động dâm dục, tính dục hay dâm ô). Người xuất giasau khi được thụ phong sẽ chính thức được xem như người đã "từ bỏ đời sốnggia đình", người ta còn gọi họ là những người tỳ-kheo (bhikkhu) hay tỳ-kheo-ni (bhikkhuni) tức là các nam hay nữ tu sĩ,họ phải chọn một lối sống đơn giản và đạm bạc. Đó là con đường quyết tâm xa lìathế tục, trên con đường đó người tu hành phải loại bỏ mọi hành vi tiêu cực và chọncho mình một thể dạng tâm thức đạo hạnh, tập trung nghị lực vào việc tu học vàthực thi Đạo Pháp (Dharma- còn gọi làCon Đường). Sự đoạn dục hoàn toàn làmột trong bốn giới luật căn bản mà họ phải tuân thủ, nếu vi phạm vào đấy sẽ bịkhai trừ tức khắc và vĩnh viễn khỏi tập thể tăng đoàn. Tuy nhiên cũng có những giớiluật kém triệt để hơn, chẳng hạn trong số này có mười ba giới cấm nghiêm trọng,nếu phạm vào đấy sẽ bị khai trừ khỏi tăng đoàn nhưng chỉ tạm thời. Trong số mườiba giới cấm ấy có sự thủ dâm, cố ý phóng uế tinh dịch, đụng chạm thân xác hay sờmó phụ nữ, nói những lời lẳng lơ hoặc hàm ý dâm dục, xúi dục người phụ nữ bán dâmhay đứng ra làm mối lái. Tuy nhiên, sự ô nhiễm ban đêm xảy ra lúc đang ngủ khôngphải là một hành động lỗi lầm.

Một người tu hành nếu có những ý tưởng thèm muốn phụ nữphải tức khắc thiền định về sự kinh tởm của thân xác (xem thêm các đoản văn tríchdẫn trong phần đọc thêm). Nếu không kiềm chế được sự ham muốn phải xin hoãn lạicác lời nguyện và hoàn tục trước khi xảy ra tình trạng không hàn gắn được [tức là bị khai trừ vĩnh viễn], xử sự như thế sẽ khôngcó ai chê trách. Ngược lại, [trong chốn chùa chiền]nếu người tu hành không khắc phục được sự cám dỗ sẽ bị khai trừ ngay khỏi tăng đoànđúng theo sự quy định của giới luật. Đối với người nữ tu giới luật cũng tương tợnhư thế không có nhiều khác biệt, tuy nhiên trong trường hợp một người nữ tu bịhãm hiếp tức ngoài sự ưng thuận của mình và không hề phát lộ sự thích thú, thìđấy không phải là một sự vi phạm quan trọng và có thể tha thứ.

Mặc dù Phật giáo Nguyên thủy chủ trương sự cấm đoán khắtkhe về tính dục, thế nhưng đời sống xã hội trong các quốc gia Đông nam Á theoPhật giáo Theravada (Nguyên thủy) lại không quá khắc nghiệt nếu các tác phong tínhdục không mang tính cách hung bạo và ngoại tình gây ra khổ đau cho người khác,( Philippe Cornu).

Các đoản văn đọc thêm

Sự xa lánh thế tục của vị Bồ-tát
trước khi thành Phật

Trong khi nghe các nhạc công đàn hát để giải khuây, ngườiBồ-tát [tức là Đức Phật tương lai] ngủ thiếp đi.Cả đoàn hát cũng mệt lả và lăn ra ngủ. Bỗng nhiên người Bồ-tát giật mình thứcgiấc nhìn thấy các nữ nhạc công vẫn còn đấy, họ tựa người vào nhau, quần áo xôlệch để lộ những thân hình tương tợ như những bức tượng gỗ, nước mũi thò lò,hai mắt sưng lên như đang khóc, nước dãi lòng thòng chảy ra từ miệng, đàn và sáovung vãi trên mặt đất. Người Bồ-tát bàng hoàng nhìn thấy toàn thể cung điện chẳngkhác gì một nấm mồ và thốt lên ba lần : "Bất hạnh thay ! Bất hạnh thay! Taphải rời bỏ chốn này ! Trước đây ta vẫn quyến luyến với cung điện nơi vua cha củata đang trú ngụ, thế nhưng hôm nay nó lại hiện ra với ta như thế này đây!".Người Bồ-tát cảm thấy kinh tởm và thốt lên : "Bất hạnh thay !", và từđáy sâu thẳm của lòng người Bồ-tát hiển hiện lên niềm khát vọng được từ bỏ tấtcả.

TríchtrongLuật Tạng của học phái Mahisasaka (một học phái Phật giáo xưa, thành lập vào thế kỷ thứ II trướcTây lịch)do André BAREAUtrích dẫn trong quyển En Suivant Bouddha(Theo vết chân Phật), NXB Philippe Le Beau, 2000.

Suy tư
về tính cách ghê tởm củathân xác

Thây ma thật ghê tởm : thân xác của người sống cũng chẳnghơn gì ! Người du-già nên xem thân xác là những gì kinh khiếp và phải luôn nhớđến điều ấy. Có ba mươi hai thứ ghê tởm thuộc màu sắc, hình tướng, mùi hôi, vịtrí và sự phân bố [các đối tượng nhận biết của giác cảm].Vật chất đào thải từ thân xác thật ghê tởm và nhơ nhớp. Các thành phần chống đỡthân xác cũng thế. Giống như một con giòi sinh ra từ một đống uế tạp, thân xácđược hình thành từ sự dơ bẩn. Bên trong thân xác chất chứa những thứ ô uế tươngtợ như một hố phân. Chất ô uế thấm ra ngoài giống như dầu thấm qua một cái bìnhbằng đất. Thân xác là một ổ sâu bọ, không khác gì một đống rác. Thân xác giốngnhư một mụt nhọt, một căn bệnh hay một vết lở loét không chữa lành được, ghê tởmvà bạc nhược chẳng khác gì một xác chết.

ASUBHANUPASSANA[phép Quán bất tịnh : một phép tu tập của Phật giáo cổtruyền (nguyên thủy) hướng vào sự suy tư về 32 thành phần ô tạp của thân xác]do Philippe Cornu trích dẫn và dịch từ bản gốc.

Một vài giới luật về tính dục
dành cho người xuất gia

Parajika thứ nhất[kinh sáchtiếng Hán dịch chữ Parajika là Đại giới có nghĩa là các giới cấm quan trọng nhất]: Không được giao hợp tính dục.

Nếu một tỳ-kheo đưa cơ quan sinh dục của mình vào một cơquan sinh dục, vào hậu môn hay vào miệng của một người khác dù là đàn ông hay đànbà, hoặc đưa cơ quan sinh dục [của người khác]vào miệng mình hay hậu môn của mình, [hoặc đưa cơ quansinh dục của mình vào cơ quan sinh dục, hậu môn hay miệng] của một con thúhay một thây ma, dù chỉ sâu bằng chiều dài của một hạt mè, người tỳ-kheo ấy sẽmất hết cương vị của người tu hành.

Dù cho người tỳ-kheo quấn cơ quan sinh dục của mình bằngbăng vải, trong một cái bao, ăn mặc theo người thế tục, hoặc trần truồng, dù khôngcảm nhận một sự thích thú nào, cũng đều mất hết cương vị của người tu hành.

Mười trường hợp sau đây không phạm tội trọng đại : khingười tỳ-kheo đang ngủ và hoàn toàn không ý thức là mình đang giao hợp khi chuyệnđó xảy ra ; khi mình không đồng lõa ; khi mình bị bất tỉnh hay điên rồ ; trongtrường hợp bị ma quỷ ám ảnh và không chủ động được mình [...] ; hoặc trước khithệ nguyện giữ giới có phạm vào các hành động ấy.

Sanghadisesa thứ nhất[Sanghadisesalà các lỗi lầm phải đưa ra trước hội đồng tăng đoàn để xét xử và bị tạm thờikhai trừ] : Không được cố tình phóng thải tinh dịch.

Nếu người tỳ-kheo thủ dâm hay nhờ người khác thủ dâm đểphóng thải tinh dịch, phải đưa ra hội đồng tăng đoàn. Người tỳ kheo không được cốtình trân quý cơ quan sinh dục của mình, không được sử dụng nó như một công cụ,hoặc để lòng thòng. Nếu phóng thải tinh dịch dù thật vô nghĩa chỉ đủ cho con ruồiuống một ngụm [...] cũng phạm vào lỗi lầm sanghadisesa.

Thế nhưng, xuất tinh khi đang ngủ và đang nằm mơ, không cólỗi lầm gì. Nếu trong khi đại tiện tinh dịch són ra ngoài ý muốn của mình, khôngcó lỗi lầm gì. Khi giữ vệ sinh cơ quan sinh dục hoặc khi bôi thuốc, một chúttinh dịch nhỉ ra và mình không cảm nhận sự thích thú, không có lỗi lầm gì.

Sanghadisesa thứ tư: Không được đề nghị làm tình với mộtngười phụ nữ.

Nếu người tu hành nghĩ đến dâm dục và đề nghị với một ngườiđàn bà một cách sỗ sàng hành động giao cấu - với mình hay với một người khác - sẽbị đưa ra hội đồng tăng đoàn. Nếu người tu hành nói với một phụ nữ là các cô gáinào muốn tái sinh trong các điều kiện thuận lợi phải hiến thân cho mình sẽ phạmvào lỗi lầm sanghadisesa thứ tư.

THE MANUAL OF THE BHIKKHU(TẬP SÁCHGIÁO KHOA CỦA NGƯỜI TỲ-KHEO), Ven. DHAMMA SAMI, 2002, Philippe Cornu dịch từbản gốc tiếng Anh.


(Trích đoạn:
KHÁI NIỆM VỀ
"TÁM MỐI LO TOAN THẾ TỤC"
TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011
)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4717)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5025)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4513)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7556)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4746)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6176)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12155)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5352)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]