Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Di Huấn Sau Cùng Của Đức Phật

19/02/201204:35(Xem: 11309)
Lời Di Huấn Sau Cùng Của Đức Phật

LỜI DI HUẤN SAU CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
Hoang Phong biên soạn
(Biên soạn dựa theo một bàiviết của Thiền sư và Giáo sư Triết họcngưới Pháp Gérard Pilet, đăng trong nội san của HộiThiền học Quốc tế AZI(Association ZenInternationale), trụ sở tại Paris, và tài liệucủa Bukkyo Dendo Kyokai(Society For the Promotion ofBouddhism), trụ sở tại Tokyo).

ducphatnietbanDưới đây là tóm tắt nhữnglời dặn dò cuối cùng của Phật. Thật ra Phậtđã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởisự dặn dò người đệ tử thân cận nhấtlà A-nan-đà. Phật bảo A-Nan-Đàtập họp các đệ tử để nghe giảngvà thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phậtđã 80 tuổi. Trong những tháng cuốicùng, Phật đãgầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyếtgiảng như thường, tuy không còn đi xa đượcnữa. A-Nan-Đà xin Phật hãy tĩnhdưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoátđi và dạy rằng :

«Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ,nhưng lòng từ bi của ta, trí sángsuốt của ta không kém sút. Ta còn tạithế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích».

Trong một khu rừng cạnh thịtrấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là mộtthị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phíađông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc-đông-bắcVaranasi (Bénarès), Phật nằm nghỉgiữa hai gốc cây sa-la.

Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn,rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầuhướng về phía bắc, mặt hướng vềphía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia. Sauđó Phật ngỏ những lời cuối cùng với cácđệ tử để nhắc lại một lần nữatầm quan trọng của ĐạoPháp. Phật nhắc nhở các đệtử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vậtnào cả, dù đó là Phật, vị thầyđích thực của họ chính là ĐạoPháp. Phật cất tiếng và nhắnnhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngàinhư thế này :

« Này các đồ đệ,các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con,hãy trông cậy vào chính sức mạnh củacác con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Nhữnglời giảng huấn của ta sẽlàm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làmnơi nương tựa cho các con; không cần phải lệthuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.

« Hãy nhìn vào thân xác các con, cáccon sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừngnào. Khi các con hiểu được rằng lạc thú lẫnđớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổ đau, khi hiểu đượcnhư thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏngcho dục vọng chi phối các con.

« Hãy nhìn vào tâm thức các con,các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạngkhông ngừng. Vì thế các con sẽ không thể nào tựbuông rơi vào chính những ảo giác củatâm thức, để rồi tự duy trì những kiêucăng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi cáccon đã hiểu rằng những xúc cảm đó nhấtđịnh chỉ mang đến khổ đau mà thôi.

« Hãy nhìn vào tất cả các vậtthể chung quanh xem có vật thể nào trường tồnhay chăng? Có vật thể nào không phải là những cấuhợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gẫy nát, tan rãvà phân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổđau cùng khắp mọi nơi, hãy noitheo những lời giáo huấn củata, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thếcác con sẽ loại bỏ được khổ đau.Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta, rồi nhất định các consẽ trở thành những đồ đệ thật sựcủa ta.

« Này các đồ đệ của ta, những lời giáo huấn ta giảngcho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng bao giờđể cho mai một đi. Phải bảo tồn nhữnglời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứu và thựchành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy,các con sẽ đạt được an vui.

« Những gì hệ trọngnhất trong những lời giáo huấn củata là các con phải kiểm soát được tâm thứccác con. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thânxác đứng thẳng, tâm thức tinh khiết và ngôn từchân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở làcuộc sống của các con chỉ làtạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loạibỏ mọi thèm khát và hung dữ đưa đến khổđau.

« Nếu các con nhận rađược là tâm thức các con đang có xu hướngbám níu hay vướng mắc vào ham muốn, các con phải gạtbỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sựcám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâmthức các con.

Tâm thức có khả năngbiến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sựlầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ,nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật.Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức cáccon và không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo.

« Để có thể giữđúng như lời giáo huấn củata, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vả.Đừng bắt chước như nước với dầuxô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước nhưnước với sữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vàonhau.

Hãy cùngnghiên cứu với nhau, cùng giảng giảicho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thứccủa các con và thời giờ của các con trong sự cãi vả hay lườibiếng. Hãy hân hoan đón nhận hoa thơm của Giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấyquả ngọt trên Đường Ngay Thật.

« Những lời giáo huấnta ban cho các con là do nơi kinh nghiệm củachính ta, và chính ta đã noi theo con đường đó. Cáccon nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữđúng như thế dù phải gặp hoàn cảnh khókhăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưa hềgặp được ta, các con thật sự còn đang ởmột nơi nào đó thật xa, dù cho trong lúc này đây cáccon đang ngồi bên cạnh ta cũngvậy. Nhưng nếu ngược lại, các con chấpnhận và đem ra thực hành những lời giáo huấncủa ta, thì dù cho các con ở thậtxa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như các con đang ởbên cạnh ta trong lúc này.

« Hỡi các đồ đệ,phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữata và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên thankhóc. Sự sống là một sự đổi thay không ngừngvà không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, tađang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như mộtcỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, tráilại các con phải hân hoan khi nhận ra đượccái quy luật biến đổi ấy và hiểuđược rằng sự sống củacon người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cốgắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạmbợ phải nhất định trở thành trườngtồn.

« Con quỷ củanhững dục vọng thế tục luôn luôn tìm cáchđánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắnđộc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yênnếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các conphải cắt đứt những mối giây ràng buộc của thèm khát thế tục và rứt bỏnhững mối giây đó như các con đã đuổi bỏcon rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảovệ thật cẩn thận tâm thức các con.

« Này các môn đệ của ta, giây phút cuốicùng của ta đãđến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chếtchỉ là sự tan rã của xác thân vậtchất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớnlên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnhtật và cái chết. Một vị Phậtđích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹnchỉ là sự Giác ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ màthôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệcủa Giác ngộ sẽ trườngtồn vô tận trong thực thể củaĐạo Pháp, trên con đường tu tập ĐạoPháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấykhông thấy ta một cách thật sự. Chỉ có ngườinào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìn thấyta.

« Sau khi ta tịch diệt,Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noitheo Đạo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trungthành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời củata, ta không hề dấu diếm điều gì trong nhữnglời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấnnào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cảnhững lời giảng của tađều được đưa ra một cách ngay thậtvà minh bạch.

« Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt.Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niếtbàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con ».

Người chép lại những lờinày của Phậtxin chắp tay mong rằng :

- Vì Phật,chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủtrên đây thêm một lần.

- Vì tất cả chúng sinh, vì sựđau khổ của muôn loài, chúng ta lạiđọc thêm một lần nữa.

- Để gởi đến từngđơn vị nhỏ nhoi nhất củasự sống, chúng ta lại đọc thêm một lầnnữa, đọc thêm một lần nữa…

Chúng ta nguyện sẽ đọc lên và đọclên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đếnkhi nào những lời dặn dò trên đây củaPhật trở thành những lời dặndò xuất phát từ chính tâm thức ta,để nhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ nhữngngười chung quanh ta, kể cả những sinh linh nhỏnhoi nhất của sự sống. Khinhững lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầyTừ bi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của chính ta, thì biết đâu lúc ấyta cũng sẽ là một vị Phật ?

Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc)

Hoang Phong

(Biên soạn dựa theo một bàiviết của Thiền sư và Giáo sư Triết họcngưới Pháp Gérard Pilet, đăng trong nội san của HộiThiền học Quốc tế AZI(Association ZenInternationale), trụ sở tại Paris, và tài liệucủa Bukkyo Dendo Kyokai(Society For the Promotion ofBouddhism), trụ sở tại Tokyo).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5604)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4311)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9140)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5464)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5087)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5685)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6174)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5189)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]