Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo trong quan hệ với chính quyền

01/02/201312:22(Xem: 9028)
Phật giáo trong quan hệ với chính quyền

PHẬT GIÁO TRONG QUAN HỆ VỚI CHÍNH QUYỀN
trường hợp vua A Xà Thế
Minh Thạnh

Phat Giao Quan He Voi Chinh QuyenMời bạn đọc tiếp tục cuộc thảo luận về quan hệ Phật giáo với chính quyền. Theo tôi, đây là đề tài có ích, vì nó quan trọng với Phật giáo, giúp người Phật tử có quan điểm rõ ràng về một vấn đề thiết yếu.

Nói đây là vấn đề thiết yếu, vì nó dường như chưa đi đến một kết luận rõ ràng, dứt khoát trong đạo Phật. Chính vì vậy, nên mới có các ý kiến chưathống nhất, cần phải thảo luận thêm.

Đây là chúng ta đang bàn luận về nội dung có liên quan đến Phật pháp, nên không phải là hý luận. Hý luận là bàn luận những điều vô ích, không cần thiết cho việc tu học.

Để tránh việc hý luận, ở đây chúng ta liên hệ vấn đề với một trường hợp Phật giáo quan hệ với chính quyền, được kinh sách ghi chép lại.

Đó là trường hợp với vua A Xà Thế.

Một trong những ý kiến bàn luận, là liệu từ phía Phật giáo có cần thẩm định, đánh giá chính quyền trước khi xây dựng quan hệ tốt. Đây là vấn đềkhá xác đáng, khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Đức Phật không dạy chúng ta trực tiếp về điều này (từ phía Phật giáo đánh giá trực tiếp phẩm chất của chính quyền), nhưng trong cuộc đời Đức Phật,có những sự kiện mà từ đó, chúng ta có thể rút ra những lời dạy gián tiếp. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến trường hợp vua A Xà Thế.

AXà Thế (Ajatasatru) là một người nắm chính quyền đương thời Đức Phật. Vương triều A Xà Thế đã có những quan hệ trực tiếp đối với Đức Phật và giáo đoàn, đã phát sinh ra nhiều sự kiện, giải quyết nhiều vấn đề, mà qua đó chúng ta có thể rút ra bài học cho quan điểm về mối liên hệ giữa Phật giáo với chính quyền.

Nhữngý kiến bình luận của chúng tôi là chủ quan, nhưng sự kiện lịch sử là sựthật khách quan và cách giải quyết của Đức Phật cũng thể hiện quan điểmrõ ràng, rạch ròi. Chúng tôi nghĩ rằng, hiển nhiên, quan điểm luôn có một mối quan hệ tốt với chính quyền, luôn tạo cơ hội thuận lợi cho một chính quyền hộ pháp là đúng theo những cách thức mà Đức Phật đã theođó mà giải quyết vấn đề trong quan hệ với vua A Xà Thế.

Vương triều A Xà Thế

A Xà Thế nắm chính quyền ở Đông Bắc Ấn Độ, trong một châu thổ rộng lớn cóđược do xâm chiếm, gọi là nước Ma Kiệt Đà (Magadha), thời gian từ 492 tr CN đến 460 tr CN. Câu chuyện về vua A Xà Thế được biên chép trong Kinh Phật và Kinh của đạo Jain.

Việc nắm chính quyền của vua A Xà Thế là bất minh. Trong việc này, vua A Xà Thế là tội phạm giết cha (vua Tần Bà Sa La) đoạt ngôi vua, trong một cách hành xử tàn ác. A Xà Thế đã giam cha mình, bỏ đói để giết cha. Chỉ xét về mặt lên ngôi, A Xà Thế là một tội phạm.

Công việc nội trị và ngoại giao của vua A Xà Thế có nhiều vấn đề. A Xà Thế huy động toàn lực quốc gia vào chiến tranh xâm lược. Việc theo đuổi chiến tranh xâm lăng đối với vua A Xà Thế là trường trực. Những cuộc chiến tranh liên miên đã khiến cho vua A Xà Thế chinh phục đến 36 vương quốc. Theo Wikipedia, vương quốc Magadha của A Xà Thế trải dài qua nhiềubang hiện nay của Ấn Độ như Bihar, Chandigarh, Hyryana, Uttaran Chal, Himachal Pradesh, Dehli, Ulta Pradesh, một phần Madhya Pradesh, Chattsgarth, Jarkhand, Tây Bengal và Nepal. Sự rộng lớn của lãnh thổ khiến chúng ta hình dung quá trình xâm lược của triều đại A Xà Thế có qui mô đến như thế nào.

Ngườidân ở một vương quốc luôn theo đuổi mục tiêu xâm lược không thể sống trong cảnh thanh bình, thịnh trị. Điều tất yếu là chính sách đối nội không tránh khỏi vấn đề. Chiến tranh xâm lược đương nhiên hao tiền, tốn của, tổn thất sinh mạng, đất nước kiệt quệ.

Đối với Phật giáo, vua A Xà Thế ủng hộ Đề Bà Đạt Đa, một tăng sĩ cầm đầu việc ly khai, chống phá, thậm chí ám hại Đức Phật. Là người ủng hộ mạnh mẽ Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế đã gián tiếp gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với Đức Phật và tăng chúng.

Trong một bối cảnh như vậy, mâu thuẫn giữa Đức Phật và tăng đoàn đối với vương triều A Xà Thế đã phát sinh trong thực tế. Đức Phật đã giải quyết mâu thuẫn này như thế nào?

Khônghướng đến tình trạng gia tăng mâu thuẫn, dẫn tới đối kháng trực tiếp, Đức Phật vừa không can thiệp vào chính sự của vương quốc, vừa duy trì khả năng có thể thực hiện được việc hóa độ đối với người đứng đầu vương triều.

Quan hệ từ phía Phật giáo

Quan hệ của Đức Phật đối với vương triều A Xà Thế vừa thể hiện tính chất xuất thế của đạo Phật, lại vừa thể hiện tính chất tích cực của đạo Phật.

Là đạo thoát tục, Phật giáo không tác động vào vương triều như một lực lượng chính trị xã hội.

Giữvai trò định hướng đạo đức, Đức Phật, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường bộ kinh, cũng đã đánh giá cao những tiêu chuẩn đạo đức mà nước Bạt Kỳ áp dụng, để khuyên bảo vua A Xà Thế đừng xâm lăng. Tuy nhiên, đâylà lời khuyến cáo, không phải sự cản ngăn trực tiếp vào chính sách của vua A Xà Thế.

Trên hết trong vai trò định hướng đạo đức, là mục tiêu hóa độ vua A Xà Thế.

Ảnhhưởng của Đức Phật đối với quan lại của vương triều A Xà Thế là môi trường cho việc hóa độ. Điều này, giải thích tại sao vị cận thần Kỳ Bà đã xúc tiến ngay cuộc gặp giữa Đức Phật và vua A Xà Thế (Kinh Samannaphala, Sa Môn Quả, Trường bộ kinh)

Vua A Xà Thế trở thành Phật tử. Vương triều A Xà Thế trở thành một vương triều hộ pháp. A Xà Thế đã có những đóng góp trong vai trò Hộ pháp vươngđối với Đại hội Kết tập kinh điển lần thứ I.

Nhưvậy, vấn đề chúng tôi muốn ghi nhận đã theo tiến trình ghi nhận như trên mà định hình. Cốt lõi của đạo Phật là ở chỗ hóa độ, hoằng hóa, chuyển hóa. Đó là mục tiêu trên hết. Quan hệ với những vương triều, với Đức Phật, vẫn tạo môi trường tốt cho việc hóa độ.

Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”.

Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại.

Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi.

Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.


Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)

Bài đọc thêm:

A-xà-thế
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )

250px-MagadhaA-xà-thế(zh. 阿闍世, sa. ajātaśatru, pi. ajātasattu, bo. ma skyes dgraམ་སྐྱེས་དགྲ་) là Vua xứ Ma-kiệt-đàmiền Bắc Ấn Độ(sa., pi. magadha), người trị vì trong 8 năm cuối cùng tại thế của Phật Thích-ca Mâu-nivà 22 năm kế tiếp (khoảng 491- 461trước Công nguyên). Ông là người giết hại vua cha Tần-bà-sa-la(sa., pi. bimbisāra) và cùng Đề-bà-đạt-đa(sa., pi. devadatta) định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự đạo Phật.

Nhân duyên về tên A-xà-thế

Thái tử A-xà-thế có ba cái tên

  • A-xà-thếđược dịch là “Vị sinh oán” (zh. 未生怨) - với ý kết oántrước khi sinh - là kẻ khi sinh ra được tiên đoán sẽ giết cha. A-xà-thếmuốn đoạt quyền quá sớm, cùng với Đề-bà-đạt-đaâm mưu vừa giết Phật vừa giết cha. Âm mưu này bại lộ, vua Tần-bà-sa-la tha tội cho con và giao ngai vàng. A-xà-thế vẫn không yên tâm vì vua chacòn sống, nên đã hạ ngục và bỏ đói vua cha. Thấy Tần-bà-sa-la vẫn vui vẻ A-xà-thế cho người giết vua cha.
  • Bà-la-lưu-chikhi sinh thái tử ra, hoàng hậu Vi-đề-hybồng thái tử đứng trên lầu cao, nghe mấy thầy tu đoán ân oán thái tử như vậy nên bủn rủn tay chân mà đánh rơi thái tử xuống đất hư hết một ngón tay, nên thái tử có thêm tên Bà-la-lưu-chi( người hư một ngón tay).
  • Thiện-kiếnsau đó mọi người trong hoàng tộc thấy ngẫu nhiên thái tử có những cái tên không hay bèn thống nhất gọi một cái tên khác là Thiện-kiến.

Thái tử ngỡ rằng mình chỉ có tên Thiện-kiến nhưng sau khi gặp Đề-bà-đạt-đa, ông này có ý đồ xấu nên kể căn cội hai cái tên kia cho thiện-kiến biết. Từ đó ác nghiệp bắt đầu bùng phát trong hành vi của A-xà-thế.

Nhân quả của A-xà-thế

Nguyên tiền thân A-xà-thế là một vị tu sĩvừa đắc quả tiên, gặp vua Tần-bà-sa-la đi săn thất bại nên trút giận màlỡ tay giết vị tu sĩ này. Quả vị còn thấp kém nên vị tu sĩ phát oán nghiệp mà đầu thai lại trả thù. Tuy nhiên do căn tu còn đó nên cuối cùngcũng được Phật hoá độ.

Về sau, A-xà-thế hỏi ý kiến Phật có nên xâm chiếm nước Bạt-kì(pi. vajjī)hay không, một nước vốn có chính sách dân chủ. Phật cho biết Bạt-kì không bao giờ thua vì dân nước đó rất đoàn kết. Từ đó A-xà-thế coi trọngdân chủ, coi trọng Tăng-giàvà qua đó có phần tỉnh ngộ. Sau khi Phậtnhập Niết-bàn, A-xà-thế lập một thápthờ xá-lợicủa Phật. Ông cũng là người xây dựng một giảng đường lớn trong lần Kết tậpthứ nhất.

Sau khi tại vị 32 năm, ác nghiệp được chấm dứt khi A-xà-thế lại bị con giết và soán ngôi y như mình vậy.

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2020(Xem: 6844)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5692)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5201)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5305)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5876)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5058)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4476)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7666)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 6320)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5701)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]