Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Góp ý về giáo dục Phật Giáo

07/01/201308:08(Xem: 5745)
Góp ý về giáo dục Phật Giáo
ht dac phap 1

GÓP Ý VỀ GIÁO DỤC PHẬT GIÁO

Thích Đắc Pháp



Tu Phật cốt yếu là CHUYỂN HÓA. Thế nào là chuyển hóa? Chuyển hóa có nghĩa là làm cho tâm tính, làm cho căn khí, nhận định của ta thay đổi.

Kính lễ Đấng Bạc già phạm!

Kính chào mừng nghị lực Đại Hội!

Nói đên từ ngữ giáo dục Phật giáo thì đây chỉ là nói theo sự vụ có tính chất thời sự vì Phật giáo với Tam Tạng giáo điển là kho lương tực nuôi sống pháp thân huệ mạng, của nhị đế, tức nhờ nỗ lực chí thiết thực hành lời giáo tổ dạy bảo mà ai nấy giàu có tâm hồn, hay nói khác hơn chính nhờ khôn ngoan thực tập đúng hướng lời huấn thị của giáo tổ kính mến mà linh hồn ai nấy trở nên tươi rói đáng yêu vì đẫ từ bỏ bao u tối bít lối mù khơi của tà chấp, vô minh, ngu muội cũ. Tu học Phật pháp là sự thực hành trọn gói cho ba nghiệp như một động tác khăng khít bất phân li vì giáo pháp Phật là một nghệ thuật sống. Ai khát khao đời sống tràn bờ thánh trí, chan chứa tù bi vô hạn thì phải găng sức suy tư chiêm nghiệm Phật lý để tự đào luyện gian khổ tâm tính mình.

Giáo pháp Phật là phương thuốc trị bịnh của ai nấy. Kinh thường nói ai nấy có tám muôn bốn ngàn phiền não thì giáo pháp cũng có đủ số ấy đối trị bịnh ấy của chúng sanh. Nhiều người hiểu lầm cho rằng có đủ số 84.000 chẵn chòi như vậy. Sự thực, số tám muôn bốn ngàn chỉ dùng khi nói quá nhiều của Ấn Độ xưa mà thôi. Câu trên nhằm ý nói tính chất uyển chuyển hay tuyệt của chánh pháp là tùy căn tính mà biết uống thuốc PHÁP gọi là tùy bịnh dữ dược, tức ai có ham thích pháp môn, cách tu như thế nào thì ứng dụng cách đó, sao cho đưa tới kết quả như mong đợi. Giáo pháp Phật căn bản bất biến là giải thoát, là LI DỤC TÔN, nhưng phương pháp hành trì tùy hoàn cảnh căn tính trình độ tức khôn ngoan biết áp dụng bao phương tiện hay khéo chứ không khư khư ngu muội một chiều có chấp.

Người tu theo Phật nhứt là hành xuất gia áp dụng chặt chẽ hơn nhiều, đối với tại gia do hoàn cảnh như vậy mà ứng dụng ít điều hơn. Giáo pháp Phật không bắt ai dùng quá khả năng quá sức chịu đựng của mình như kẻ vác 20kg thì tùy, không bắt buộc y phải gồng mình gánh vác 50kg.

Tu Phật cốt yếu là CHUYỂN HÓA

Thế nào là chuyển hóa? Chuyển hóa có nghĩa là làm cho tâm tính, làm cho căn khí, nhận định của ta thay đổi. Làm cho tính nết trở thành tức từ u tối cau có dữ dằn mà trở thành hiền lương dễ mến. Như vậy chuyển hóa là suốt đời ta luôn sống với TỈNH BIẾT tức sống với ý thức sáng tỏ hằng hằng trước mọi giao tiếp của ố căn. Có sống định trụ yên lắng trầm tỉnh như vậy là ta có năng lực thấy rõ và thay đổi chuyển hóa tâm bợp rợp, lất cất, thô tháo ra từ tốn êm ái. Do đó nếu gọi là động tác giáo dục thì trong nhà đạo ta cái đầu tiên cho đường tu giải thoát chính là THÚC LIỄM THÂN TÂM thắt bó 3 nghiệp của mình oai nghi, luật giai, giới luật đã đưa ra biết bao điều phòng phi chỉ ác nhằm uốn nắn lại 3 nghiệp của người tu hướng tới giác ngộ. Đạo Phật ra đời hơn 2500 lịch sử phát đạt khắp hoàn vũ ai có chú tâm nghiên cứu học hỏi truy tầm chơn thực nghĩa của Như Lai thì cũng đều thấy giá trị TRÍ HUỆ của đạo Phật. Trong kinh Brahmajala có chép một câu chói sáng tuyệt vời là Đức giáo tổ dạy: “Kẻ thiếu hiểu biết tán thán, khen ngợi giới đức của ta chỉ có người trí mới tán thán TRÍ ĐỨC của ta.”

TRÍ ĐỨC tức nội dung vĩ đại của giác ngộ Thánh Trí siêu phàm thấu biết hồn vía vạn pháp là vô thường vô ngã. Mà vô thường vô ngã bởi chúng do vô số yếu tố cấu tạo xuất hiện ra ở thời gian và không gian. Đó là pháp duyên khởi thậm thâm. Tất cả càn khôn vũ trụ cho tới con kiến cọng rau giọt nước rơi đầu hè hoàn toàn do vô số yếu tố xa gần cấu tạo nên không có bất cứ sự việc nào tự có cách độc đoán được cả. Khi ta thấu ngộ hồn vía của pháp duyên khởi là ta đạt đại huệ giải thoát đà ra ni, tâm sáng như gương vượt bỏ bên dưới mọi đắc thất mọi khen chê mọi tử sanh.

Ta Sống với trạng thái bừng ngộ vĩ đại của tâm NHƯ NHƯ cho nên Đức giáo tổ còn có tên là NHƯ LAI.

Ta đạt trí huệ Phật pháp tức bát nhã trí thì ta sống thảnh thơi ra ngoài mọi cố chấp, mọi khái niệm trói buộc cũ lâu đời, nó gây bao phiền muộn tử sanh bầm dập. Giá trị TRÍ HUỆ của đạo Phật sáng bất diệt đó là sự giác ngộ mà mỗi người có tràn đầy khí lực tu tập đạt tới như Phật. Do đó, mục đích tối hậu của tu Phật là giác ngộ, trút hết nợ nần dan díu với mụ già vô minh đã khống chế cả tỉ kiếp cho tới nay. Mọi huấn thị giáo dục của Phật giáo không ngớt chỉ ra cách phá tan, phá rã bộ máy NGÃ CHẤP trong quan điểm cái nhìn của ta, vì NGÃ CHẤP là trụ sở, là trung tâm cung cấp vũ khí tư tưởng cho 3 nghiệp hành tác gây nghiệp nhân cho khổ hận suốt kiếp cho mãi tới mai sau. Nhờ CHUYỂN HÓA mà ta phá bỏ ngã chấp. Ngã chấp bao gồm hệ thống phiền não tham giận cố chấp hận thù, nhỏ mọi nhọn mõ, đủ thứ giằng co như tấm da phiền muộn phủ kín tâm hồn thanh lương tươi mát thánh thiện của ta. Cách tu luyện, quán chiếu từ 3 nghiệp trong nhà đạo nhắm tới cho ta đạt tâm giải thoát ứng xử sự đời luôn luôn đậm chất từ bi trí tuệ. Đó là hoàn tất mục tiêu huấn dục thanh cao của đạo Phật.

Ngày nay nói giáo dục tức nhằm nói đến sự vụ học chữ nghĩa kinh điển. Lĩnh vực này đỏi hỏi phải dành nhiều thời gian tu học trong tu viện còn như lối TRƯỜNG thì nó khêu ngợi nhắn hạn này nọ lung tung, khiến kẻ học quên mất căn bản tu luyện tính nết, chỉ chăm học mà nhiều khi học chai vì ngôn ngữ văn tự còn quá thấp không đủ dung lượng tiếp nhận Ý NGHĨA sâu sắc của kinh văn. Người dạy đôi khi lơ là không củ soát nội lục mục tiêu giải thoát chỉ dạy theo văn bằng thành quá nông cạn.

Hiện nay, khi nói giáo dục tăng ni hay giáo dục Phật giáo ta cần phân biệt có ranh giới khá rõ, đừng lẫn lộn bởi sử dụng từ ngữ giáo dục. Đức Phật cả đời đi suốt lưu lực sông Hằng bố giáo, Ngài chỉ nhận hai danh từ là người chỉ đường và người chỉ thuốc trị bịnh tâm linh. Ngài khuyên tấn ai nấy Tự Nỗ Lực trau giồi nhơn cách, đạo đức, lương tâm khoan dung, độ lượng của mình, kể cả Tăng Hội ngài vẫn nói như thế: Tăng Hội còn mong đợi ở Ta điều gì nữa, Ta đây là người chỉ đường.

Thế có nghĩa là mỗi người khôn ngoan rắn rỏi với chí nguyện mình nỗ lực Tự cứu, tự giác, tự mài giũa tính nết mình Tự BIẾN MÌNH THÀNH HÒN ĐẢO CHO MÌNH ẨN NÚP, gọi là đương tự châu, hoặc còn nói mỗi người tự thắp đuốc lên mà đi. Như vậy, chư Phật Bồ tát chỉ hỗ trợ năng lực tinh thần cho ta hăng mạnh, cháy dậy chí khí. Phật chưa hề hứa cõng ai lên Niết Bàn, Ngài giao trách nhiệm tự cứu tự thắp sáng cho nên Ngài là bực Giáo chủ LIÊM KHIẾT nhứt nhân loại, không hề bịp bợm. Giáo dục của Phật là chỉ dạy cách tuyệt hay và vô cùng đúng hướng để ta nỗ lực tự làm, không buộc ai theo một cách cưỡng bức. Do vậy, mới có chương trình gọi là khế lý và khê cơ. Đó là một nền giáo dục nhứt hướng khai mở tận cùng. Lần nọ tới thăm bộ tộc KALAMA các thanh niên đón chào kính mến rồi họ nói các đạo sư tới đây giảng đạo và ai cũng cho mình là số một. Sao trên đời có nhiều số một thế?

Phật mỉm cười nói câu hỏi của anh quá thông minh. Vậy thì sau khi suy xét tường tận bằng chánh trí rồi hãy tin, chớ tin lời đồn đãi, chớ tin đó là bút tích của đại sư nào đó để lại. Nói chung tin điều gì đó phải qua lý trí tỉnh táo sàng lọc cẩn thận có hiểu thấu mới tin và điều ấy áp dụng qua có ích như thật theo từ bi trí huệ thì mới tin. Bài kinh cho dân KALAMA đó, sau này người có trí thông thái khám phá ra nó là TUYÊN NGÔN TỰ DO TƯ TƯỞNG vĩ đại tối cổ mà Phật phóng ra.

Nay nói giáo dục Tăng Ni thì vấn đề khá phức tạp nói sao cho hết. Vậy thì bắt đầu từ chỗ bắt đầu, ta phải lập 1 hoặc 2 trường sư phạm trước, chọn mấy vị có bằng tiến sĩ thiệt, làm giáo sư dạy tâm lý giáo dục, dạy kinh luật luận theo tinh thần mới. Số năm tu học nơi trường trung cấp hiện giờ phải 4 năm, mở cấp tiểu học 4 năm. Nồng cốt chương trình tiểu trung cấp là học nhiều kiến thức văn học thế pháp sử địa triết, song song dạy Hán ngữ quan trọng. Khi có khá đủ kiến thức văn học thì vào kinh sẽ tiếp nhận dễ và có kết quả như vào rừng đốn cây ta có khí cụ. Trí óc chưa mở mang văn tự còn quá yếu mà dạy kinh cao thì chỉ là học chay vô bổ. Phải tăng cường chăm bón kiểm điểm ngành học tiểu cấp trung cấp với các môn phổ thông cho chặt chẽ thì leo qua học kinh văn triết học Phật giáo không mấy khó. Tiểu cấp nên khuyến tất mỗi chùa tự lo. Mở rộng dạy cours riêng như kiểu trung tâm phiên dịch Hán Việt Huệ Quang, bổ túc cho bao cái thiếu sót. Phải có kinh phí trung ương hỗ trợ tượng trưng một phần nào để duy trì sức dạy không thể vắt kiệt tình nguyện mãi được. Tới đây kết thúc, xin hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2012(Xem: 11028)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
18/09/2012(Xem: 10477)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
14/09/2012(Xem: 19806)
Thế giới đang sử dụng Thiền như thức ăn như nguồn sống không thể thiếu trong cuộc đời thường. Ngay ở nước Mỹ, quốc gia tân tiến bậc nhất về khoa học kỹ thuật cũng đã áp dụng Thiền như một phương thuốc trị liệu tâm lý.
14/09/2012(Xem: 6786)
Tất cả những pháp môn tu chỉ nhằm chuyển hóa tâm thức, vì chỉ có chuyển hóa tâm thức. Nhìn trên căn bản, mỗi người tu Phật cần thực hành hai phương diện. Thứ nhất, hành giả phải có khả năng rút khỏi xã hội một thời gian nhất định nào đó, có thể vài giờ, vài ngày, vài tháng hoặc vài năm... Thứ hai, có khả năng đem những kinh nghiệm từng trãi nơi tịnh tu vắng vẻ cống hiến lại cho cuộc đời, cho những người hữu duyên và cho chính cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta. Như hơi thở ra và hơi thở vào, cả hai đều cần thiết như nhau. mới phổ độ chúng sanh một cách chân thật.
14/09/2012(Xem: 6881)
Mấy năm trước, nhân dịp Đức Dalai Lama đến thăm thung lũng Lahoul nơi chúng tôi tu tập ở Ấn Độ; lúc đó Ngài trú lại một tuần để thăm viếng, ban lễ điểm đạo và giảng pháp. Sau buổi thuyết pháp dài mấy tiếng đồng hồ, tôi hỏi một phụ nữ Lahoul rằng: “Bác có biết Đức Dalai Lama giảng gì không?”. Bác gái trả lời: “Dạ, con không hiểu nhiều nhưng con biết Ngài giảng là, nếu ta có lòng từ bi thì đó là điều tốt”. Đúng vậy, cơ bản là như thế. Đâu có gì đáng nói hơn thế nữa phải không? Nếu chúng ta có lòng từ bi, điều đó không tốt lắm sao? Vậy từ bi nghĩa là gì?
12/09/2012(Xem: 4813)
Đã có một trong những sự phát triển sâu xa , xuất hiện từ thế kỷ 20 , tác động đến đời sống của hàng tỷ người , nhưng vẫn chưa được chú ý rộng rãi . Bên cạnh những biến đổi đầy ấn tượng về chính trị và xã hội , những phát triển về khoa học và công nghệ , cùng những hệ thống mới trong lãnh vực vận tải và truyền thông , các sử gia tương lai chắc chắn sẽ quan tâm đến sự tự do tương đối . Họ sẽ nhận thức rằng chính sự tự do tương đối đã trước hết diễn dịch rồi sau đó định hình cho cá tính của từng con người ; cuối cùng mang lại quyền tồn tại cho loài người . Tuy những yếu tố quen thuộc tạo nên tự ngã , như là tính cách sắc tộc , khu vực định cư , dòng dõi , gia đình …vẫn hiện diện , nhưng những yếu tố đó không còn quan trọng vì một chuỗi những yếu tố độc đặc mới xuất hiện trong thế kỷ 20 . Cho nên khi đã hoàn toàn chấp nhận các ý niệm dân chủ tự do như một bản chất thực nghiệm làm nền để xác định ý nghĩa của việc làm người , hiếm khi chúng ta xem xét những ý niệm đó đã làm biến đổi hình th
12/09/2012(Xem: 5758)
Phật giáo Đại thừa có rất nhiều Thần chú như Chú Đại Bi, chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Chuẩn đề… mà Thần chú chỉ có trong Mật tông. Vậy lịch sử hình thành Mật tông như thế nào?
11/09/2012(Xem: 5183)
Người Phật tử khi đã hiểu đạo thì phải lấy hạnh khiêm tốn làm đầu, phải biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi đạo lý thì mới học được điều hay lẽ phải mà biết được cội nguồn của giác ngộ, giải thoát. Người Phật tử phải nên nhớ rằng muốn mình thật sự khiêm tốn thì ngay bước đầu chúng ta phải tập nhẫn nhịn đối với những việc trái ý nghịch lòng, nhẫn không có nghĩa là hèn nhát.
01/09/2012(Xem: 9532)
Phật tính [1] có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó không là một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơ là điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567