Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

NHÀ PHẬT VỚI GIÁO DỤC - LỊCH SỬ VÀ VẤN ĐỀ - Nguyễn Khắc Thuần

02/01/201307:58(Xem: 8307)
NHÀ PHẬT VỚI GIÁO DỤC - LỊCH SỬ VÀ VẤN ĐỀ - Nguyễn Khắc Thuần

NHÀ PHẬT VỚI GIÁO DỤC - LỊCH SỬ VÀ VẤN ĐỀ

Nguyễn Khắc Thuần

Có lẽ chúng ta nên cùng nhau nghiền ngẫm lại câu nói của bậc cao tăng Già-la Đồ-lê : hãy bắt đầu bằng việc nói cho bá tính biết những gì họ đang mong muốn biết chứ chưa vội nói với họ tất cả những gì chúng ta biết.

1. Có một thực tế tốt đẹp không thể phủ nhận được là ngay từ khi mới truyền bá tới Việt Nam, Phật giáo đã lập tức tiến hành một quá trình nhập thế lâu dài, tích cực và đầy hiệu quả. Sư không chen chân chốn lắm của đông người mà tự nguyện và ân cần đến với dân, chốn núi cao hay rừng thẳm, nơi trung du hay đồng bằng, vùng duyên hải hay ngoài hải đảo, bất luận nơi nào có dân là ở đó sớm muộn thế nào cũng sẽ có các nhà sư. Sư tận tình chỉ dạy cho dân đi khai khẩn đất đai, biến nhiều vùng hoang vu thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật. Sư tìm cách tập hợp và tổ chức dân làng chống thú dữ, tạo sự an lành cho thiên hạ. Sư cần mẫn tìm thuốc chữa bệnh cho dân, vui niềm vui trăm họ khỏe mạnh.

Sư tận tâm truyền dạy đại đạo làm người và chân thành mong mỏi bầu khí các gia đình được trong trẻo. Sư nêu gương bảo vệ kỷ cương, khát khao trăm họ luôn biết kính trên nhường dưới, nền nếp gia phong ngày một đàng hoàng. Sư chỉ dẫn dân lành cách tôn vinh điều tốt và cách tránh xa việc xấu. Dân luôn yêu quý và tin cậy các nhà sư, chủ yếu là bởi tâm nguyện và phép ứng xử rất đáng kính ấy. Chừng như sức thuyết phục mãnh liệt của Phật giáo bắt đầu từ những hành vi thiết thực và phong thái siêu phàm của các nhà sư chứ không phải bắt đầu từ những nội dung triết lý cao siêu.

Nhờ nhập thế tích cực, sư đã nhanh chóng trở thành chỗ dựa tin cậy và vững chắc của muôn dân. Nhờ nhập thế tích cực, sư gần dân, hiểu dân và biết cách nhẹ nhàng chuyển tải những giá trị to lớn của đức nghiệp nhà Phật đến với dân. Nhờ nhập thế tích cực, trước khi dựng chùa, các nhà sư đã tạo lập được vị thế rất tôn nghiêm trong đức tin của xã hội.

2. Một trong những triết lý lớn của Phật giáo là duy tuệ thị nghiệp (惟 慧 是 業). Với triết lý rất giàu chất nhân bản và nhân văn này, nhà Phật đã vươn tới ba mục tiê u rất quan trọng. Một là tôn vinh vai trò đặc biệt cao quý của trí tuệ đối với lý tưởng sống của xã hội loài người. Hai là xác định năng lực phi phàm của trí tuệ đối với toàn bộ quá trình xây dựng sự nghiệp của bất cứ ai, bất cứ dạng thức hay quy mô nào. Ba là vừa khuyến cáo, vừa tạo cơ hội cho tất cả mọi người tiếp cận với trí tuệ để rồi sau đó sẽ từng bước làm chủ trí tuệ.

Vi mục tiêu thứ nhất, điểm tương đồng giữa nhà Phật với các nền giáo dục khác là luôn đề cao tri thức, luôn đề cao sự hiểu biết đa dạng và đa sắc màu, luôn đề cao sự hình thành, phát triển và ảnh hưởng tích cực của hệ thống những kỹ năng sống rất cần có đối với chúng sinh. Nhưng, nhà Phật không bao giờ câu nệ, không bao giờ tự giới hạn tri thức trong một khuôn khổ duy nhất là học vị chính quy từ thấp lên cao như nhà Nho và như một số nền giáo dục sau này. Chữ tuệ (慧) theo quan niệm của nhà Phật rất gọn gàng nhưng cũng rất hàm súc, ở đó có tuệ căn (慧 根 )[1], có tuệ lực (慧 力)[2], có tuệ mệnh (慧 命)[3], có tuệ kiếm (慧 劍)[4] và có cả tuệ nhãn (慧 眼)[5].

Với các nhà tôn sùng chủ nghĩa chính quy hiện đại, có thể điều này khiến cho họ cảm thấy không an lòng nhưng nếu lấy mục tiêu tối thượng của tri thức là khả năng ứng dụng để xem xét thì tiếc thay, chưa bao giờ hệ thống bằng cấp lại chặt chẽ như hiện nay mà cũng chưa bao giờ năng lực giải quyết những vấn đề lớn của thực tiễn sinh động lại yếu kém như hiện nay.

Vi mục tiêu thứ hai, do xác định rõ năng lực phi phàm của trí tuệ nên nhà Phật luôn bày tỏ từ tâm và đặc biệt là sự tin cậy đối với người học. Thực tế cho thấy rằng người thầy kém cỏi nhất chính là người thầy không bao giờ tin tưởng ở học trò của mình. Trí tuệ thu được trong quá trình học tập sẽ giúp các thế hệ học biết cách tự điều tiết mọi hành vi ứng xử sao cho phù hợp với cộng đồng, sao cho xứng đáng với niềm tin yêu của xã hội. Học để biết mà sống và làm việc chứ không phải học để dùng bằng cấp tạo thành bậc thang đi lên cho hoạn lộ của mình.

Trong qua khứ, có một nền giáo dục chưa bao giờ vấp phải vấn nạn bằng cấp giả, đó chính là giáo dục Phật giáo. Người học chỉ làm những gì mà tuệ nghiệp của chính họ xét thấy cần làm và có thể làm được chứ không phải cứ vô tư nhận việc theo bằng cấp, bất kể mình có làm được hay không. Ở đâu mà trình độ hiểu biết với hệ thống học vị không chịu song hành với nhau, ở đó chưa thể có xã hội văn minh theo đúng nghĩa chặt chẽ của từ này. Hóa ra, thoạt trông cứ ngỡ giáo dục nhà Phật thưở xưa có vẻ như lỏng lẻo nhưng thực chất lại không phải vậy.

Vi mục tiêu thứ ba, có lẽ chính nhà Phật là lực lượng đi tiên phong trong toàn bộ quá trình mà ngày nay chúng ta gọi là giáo dục mở. Tuổi tác nào muốn học cũng đều được chấp thuận mà không chút câu nệ. Dù nam hay nữ, hễ có tâm nguyên mở mang kiến thức cũng đều có thể học, không khắt khe phân biệt và cấm đoán đàn bà con gái tới trường như nhà Nho. Chẳng có ai điểm danh, chẳng có ai kiểm soát và cũng chẳng có ai áp đặt nội quy…giáo dục nhà Phật xưa là vậy. Khi người học cảm thấy việc học là cần thiết, tự họ sẽ biết họ cần phải làm gì và làm như thế nào cho phải phép.

Khi thầy là nhà sư, người vừa tận tình chuyển tải tri thức vừa quảng bá tâm đức có thật của chính bản thân họ, người học sẽ vì cảm phục mà theo đến cùng. Ở đời, ai khiến cho thiên hạ sợ mà theo thì thiên hạ có thể theo rất nhanh nhưng ngay vừa mới theo đã bắt đầu nhen nhúm lửa phản trắc. Nhưng cũng ở đời, ai khiến cho xã hội rộng lớn vì cảm phục mà theo, có thể họ sẽ theo chậm hơn nhưng phàm đã theo là vui theo mãi mãi. Theo khi thầy còn tại thế. Theo cả khi thầy đã viên tịch. Đôi khi chỉ nghe âm hưởng tốt đẹp phảng phất trong lời truyền tụng của người xưa cũng đủ để họ kính thờ.

3. Ra đời sớm nhất trong lịch sử giáo dục Việt Nam chính là giáo dục truyền nghề và giáo dục võ nghiệp. Hậu thế trân trọng ghi nhận cống hiến của hai nền giáo dục này nhưng công bằng mà nói, giáo dục truyền nghề và giáo dục võ nghiệp cũng chỉ mới dừng lại ở quy mô nhỏ, phân bố rải rác và nhất là xét về quy trình đào tạo, cả hai đều chưa có sự đồng nhất Xuất hiện muộn hơn chút ít so với hai nền giáo dục nói trên là giáo dục Phật giáo nhưng ngay từ đầu, nền giáo dục này đã có những nét riêng khá độc đáo thể hiện qua đội ngũ những người thầy, qua cách tổ chức lớp học và nội dung chương trình.

Về đội ngũ những người thầy, chiếm ưu thế tuyệt đối tất nhiên vẫn là các nhà sư tu hành trong chùa. Các Ưu-bà-tắc (Upasaka hay 優 婆 塞 tức đàn ông tu tại gia) và các Ưu-bà-di (Upasikâ hay 優 婆 夷 tức đàn bà tu tại gia) tuy cũng có tham gia vào quá trình này nhưng xem ra họ cũng chỉ là lực lượng giữ vị thế bổ sung. Trong cách viết Hán tự, chữ (师) để chỉ người tu hành cũng chính là chữ dùng để chỉ người thầy giáo. Phàm đã là sư, nhận thức phải thông tuệ, đạo hạnh phải lớn lao, tại thế phải gương mẫu. Như trên đã nói, khi người thầy đã gồm đủ ba tố chất quan trọng này thì xã hội sẽ vì sự kính nể và cảm phục mà the o học đến cùng. Chưa hẳn mọi người đều đồng ý nhưng quả thật là tôi rất thích hai chữ thầy chùa. Sở dĩ gọi là thầy chùa vì thầy đang tu hành trong chùa và quan trọng hơn, vì thầy từ tâm hào hiệp dạy chùa chứ không hề thu một chút kinh phí nào cả. Với ngàn xưa, hình như chỉ có giáo dục Phật giáo và duy nhất giáo dục Phật giáo mới có hiện tượng đặc biệt này. Đây chính là điểm khác biệt dễ thấy nhất giữa giáo dục Nho giáo với giáo dục Phật giáo. Học chữ thánh hiền ai chẳng muốn nhưng không có học phí thì đành ngậm ngùi cam phận đứng ngoài. Không ai lên án thầy đồ thu tiền nhưng dẫu sao, việc thu tiền cũng đã khiến cho không ít người tuy bẩm sinh rất sáng dạ mà vẫn không được học.

Về tổ chức lớp học, nhà Phật luôn đề cao ý thức tự giác của mọi người chứ không ràng buộc ai bằng bất cứ một hệ thống quy chế cụ thể nào cả. Người người tự giác theo học vì tâm thành hằng ngưỡng mộ đấng chí tôn, vì sự cảm phục đức tuệ cao dày của sư thầy và vì những lợi ích thiết thân đối với bản thân và gia đình họ. Rất nhiều nội dung triết lý uyên thâm của nhà Phật đã được xã hội hoan hỷ đón nhận và coi là nền tảng căn bản của gia giáo, đức nghiệp lớn lao vĩnh tồn và đáng kính lắm. Hóa ra có quá nhiều điều tốt đẹp, tuy giáo dục Phật giáo không cần ồn ào kêu gọi bá tính hãy cố gắng làm mà rốt cuộc, hiệu quả lại rất lớn.

Về nội dung chương trình, sự thoáng đãng nhưng hữu ích của giáo dục Phật giáo thuở xưa rất xứng đáng được trân trọng ghi nhận. Ngoài các bộ kinh sách và giáo lý căn bản, những bài giảng còn lại được mỗi chùa thực hiện mộ t cách khác nhau. Bậc cao tăng Già-la Đồ-lê từng có lời khuyên các sư thầy rằng hãy bắt đầu bằng việc nói cho bá tính biết những gì họ đang mong muốn biết chứ chưa vội nói với họ tất cả những gì chúng ta biết . Điều mà bá tính mong muốn biết là phép ứng xử với gia đình và họ tộc, với xóm giềng và cộng đồng gần xa, với môi trường tự nhiên và vạn vật, với tiền tài, quyền uy và tâm linh. Họ có thể đến nghe giảng một lần hoặc rất nhiều lần, họ có thể về nhà suy nghĩ và sau đó chân thành đến chùa xin sư thầy tiếp tục chỉ vẽ thêm. Không ai coi đây là chuẩn mực tuyệt đối và duy nhất của giáo dục nhưng rõ ràng, tính thoáng đãng và thiết thực cần được nghiên cứu để kế thừa.

Tóm lại là trong lịch sử giáo dục Việt Nam, giáo dục Phật giáo đã từng có những cống hiến không nhỏ. Khi nhà chùa là nhà trường, nhà sư là nhà giáo, khi nội dung giảng dạy luôn bám sát nhu cầu sinh động của thực tiễn, hiệu quả đào tạo tốt đẹp sẽ tự nhiên được xã hội trân trọng đón nhận. Điều bất ngờ là không ít nhà sư chẳng hề có bằng cấp những đã t rực tiếp đào tạo nên những bậc đại khoa bảng và cũng đã có không ít bậc đại khoa bảng dũng cảm từ bỏ công danh để trở về say mê nghiền ngẫm những giá trị triết lý của nhà Phật[6]. Họ hoàn toàn không phải là đại diện của đội ngũ trí thức tam giáo[7]mà thực sự là những Nho gia, sau đó tự tìm đến với Phật giáo bởi những lý do chính đáng riêng.

4. Có một thực tế rất phổ biến và kéo dài gần như xuyên suốt lịch sử giáo dục Phật giáo Việt Nam là các nhà sư thường không ngừng tìm cách ứng dụng hệ thống kiến thức Phật gi áo vào thực tiễn xã hội chứ không phải là đầu tư thật nhiều công sức và trí tuệ cho hoạt động nghiên cứu Phật học. Với một số bậc cao tăng mà nhất là những bậc cao tăng đã có công khai sáng hoặc hoằng dương mạnh mẽ các dòng tu, tuy trình độ Phật học của họ rất uyên thâm nhưng đó không phải là hiện tượng phổ biến, càng không phải là hiện tượng đủ sức chi phối nền giáo dục Phật giáo. Thực ra, đây cũng là tình trạng chung của các nền giáo dục khác. Việt Nam từng có đến hàng ngàn bậc đại khoa Nho giáo nhưng lại rất hiếm nhà Nho thực thụ, có rất nhiều Đạo sĩ được đời ca tụng là cao tay ấn nhưng có quá ít các nhà Đạo học. Các hệ tư tưởng khác được truyền bá tới Việt Nam thời cận đại và hiện đại cũng không phải là ngoại lệ.

Trong bối cảnh của tình hình đất nước trước đây, xu hướng ứng dụng là hoàn toàn cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, vạn vật hữu sinh tất hữu diệt, đến một thời điểm cụ thể nào đó, xu hướng ứng dụng nhất định sẽ dần dần bị đẩy lùi để ít nhất là dành một phần thỏa đáng cho quá trình tổng kết và nâng cao kiến thức hàn lâm. Nhất định trong tương lai không xa, một nền Phật học Việt Nam bề thế sẽ được khai sinh và có ảnh hưởng quốc tế ngày càng rộng lớn.

5. Tôi có may mắn được mời tham gia giảng bài cho Học Viện Phật Giáo tại thành phố Hồ Chí Minh ngót hai chục năm nay. Đây chính là một trong những cơ hội thuận lợi để tôi có thể tiếp cận với nền giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, vì lý do nghề nghiệp, tôi cũng từng có dịp đến viếng rất nhiều ngôi chùa lớn nhỏ trên khắp đất nước ta. Từ thực tiễ n của quá trình khá lâu dài này, tôi mạo muội trình bày vài cảm nghĩ của mình về giáo dục Phật giáo hiện nay.

Thứ nhất, giáo dục Phật giáo Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và đã khẳng định được vị trí riêng của mình. Căn tu và hạnh tu tuy vô cùng quan trọng nhưng nếu thiếu sự thông tuệ, dù ít hay nhiều cũng đều có thể gây nên những khó khăn rất khó lường cho ý nguyện không ngừng góp phần hoằng dương Phật pháp. Bởi lẽ này, tôi thật sự cảm kích khi được chứng kiến sự khai sinh của hàng loạt cơ sở đào tạo từ sơ cấp đến cao cấp. Xưa, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn từng đặt ra 4 tiêu chuẩn bắt buộc phải có đối với người xuất gia tu hành. Một là phải từ 50 tuổi trở lên, hai là phải có lý tưởng tu hành, ba là phải có đạo hạnh và bốn là phải thông hiểu giáo lý. Trong 4 t iêu chuẩn nói trên, tôi chỉ ủng hộ tiêu chuẩn thứ hai và tiêu chuẩn thứ ba.

Tiêu chuẩn thứ nhất chẳng những không ủng hộ mà tôi còn phản bác. Với tiêu chuẩn thứ tư, tôi nghĩ rằng khi chưa xuất gia, nếu chưa thông hiểu giáo lý là điều bình thường, nhưng khi đã xuất gia lâu ngày mà không thông hiểu giáo lý là điều rất khó chấp nhận. Muốn được như vậy, ngoài nỗ lực tu tập cá nhân, giáo hội Phật giáo cần xây dựng một hệ thống đào tạo bắt buộc mà vẫn phù hợp với tình hình mới. Có một thời rất lâu dài trong lịch sử dân tộc, nhà sư là đội ngũ trí thức tin cậy của nước nhà, giờ đây, tuy quy chế giáo dục quốc gia đã hoàn toàn khác trước nhưng đối với các nhà tu hành Phật giáo thì triết lý duy tuệ thị nghiệp vẫn phải tiếp tục được đề cao. Xin giáo hội Phật giáo hãy ti ếp tục tổ chức đào tạo như đã từng liên tục tổ chức đào tạo trong mấy chục năm gần đây vì đó là tâm nguyện chung của xã hội rộng lớn chứ không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi xã hội mộ Phật.

Thứ hai, theo thống kê sơ bộ của tôi, số nhà tu hành Phật giáo có học vị Thạc Sĩ hoặc Tiến Sĩ chiếm tỷ lệ khá lớn, trong đó, học vị do các học viện và trường đại học nước ngoài cấp cũng không phải là ít. Khi chúng ta đã và đang xây dựng một xã hội học tập, bất cứ ai đi học và đạt được học vị cao đều rất đáng mừng. Tuy nhiên, là một nhà giáo lâu năm, tôi luôn chân thành mong đợi nội dung của các luận án bậc cao đó sẽ phản ánh thật sâu sắc chất Phật học, thể hiện thật rõ đó là công trình nghiên cứu của một nhà tu hành Phật giáo. Tất cả các đề tài luận án khác tuy rất hay và cũng rất quan trọng nhưng sẽ hay hơn nữa, sẽ quan trọng hơn nữa nếu chúng ta có thật nhiều đề tài luận án thực sự đúng nghĩa là Phật học. Đây là một vấn đề không hề đơn giản nhưng cũng chính vì thế mà xã hội luôn tin tưởng những người theo học bậc cao sẽ ngoạn mục vượt qua.

Thứ ba, giáo dục không bao giờ chỉ gói gọn trong phạm vi trường lớp chính quy mà luôn tìm cách mở rộng, luôn sáng tạo những dạng thức mới hơn và phù hợp hơn đối với người học. Nhà Phật có ba lợi thế cần được phát huy mạnh mẽ. Một là hơn 16.000 ngôi chùa[8] đang hiện hữu trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Xin các nhà tu hành hãy tận tâm hướng dẫn cho chúng sinh thông qua hệ thống các nghi lễ, qua các buổi thuyết pháp và qua các sinh hoạt cộng đồng. Gần đây, một số nhà sư còn mạnh dạn tổ chức các lớp dự bị hôn nhân, rèn luyện kỹ năng sống cho nam nữ thanh niên và thậm chí còn cử hành hôn lễ cho không ít thiện nam, tín nữ trẻ tuổi nữa.

Từ chối các nhu cầu tự nhiên và có thật của muôn đời là điều không nên, vì thế, tôi ủng hộ những việc làm thiết thực này, với điều kiện là làm trong khuôn khổ giới luật cho phép và làm trong khả năng có thể của mình. Hai là các cơ quan ngôn luận của giáo hội như báo và tạp chí, chưa kể gần đây chính tôi cỏn được mời tham gia một số chương trình truyền hình do giáo hội Phật giáo phối hợp thực hiện, hãy phát huy hết lợi thế to lớn của chính mình. Ai cũng biết tác dụng mạnh mẽ của phương tiện thông tin đại chúng nên việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tờ báo và tạp chí phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng. Thông qua các cơ quan ngôn luận, giáo hội Phật giáo nhất định sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc với cộng đồng, kể cả cộng đồng ngoại đạo và khác đạo.

Nếu có một bộ phận nào đó chưa hiểu Phật giáo thì đó là lỗi của họ, còn cơ quan ngôn l uận của giáo hội mà không quyết tâm làm cho bộ phận này hiểu đúng về Phật giáo thì lỗi thuộc về các cơ quan ngôn luận của giáo hội. Ba là hiện tại có rất nhiều nhà tu hành Phật giáo say mê nghiên cứu và chính họ đã chứng tỏ cho đời thấy trí lực cũng như bút lực rất dồi dào. Muốn thành công thì phải có chí cả và lòng đam mê nhưng muốn đạt được hiệu quả lớn lao và bền vững thì phải nhanh trí phát hiện ra những nhu cầu học hỏi rất chính đáng của xã hội.

Tôi từng đọc không ít công trình được xuất bản nhờ sự tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. Là tác giả của 313 đầu sách đã được xuất bản và nhiều lần tái bản, tuy chưa từng nhận bất cứ một chút tài trợ nào của ai, tất cả đều ra mắt theo quy chế xuất bản chung của nhà nước hiện hành, nhưng cũng không vì thế mà tôi đánh giá sai vai trò của nhà tài trợ. Điều tôi muốn tâm sự là khi đã có thuận lợi về kinh phí xuất bản, người cầm bút cần nghiên cứu thật kỹ về bạn đọc của mình. Có lẽ chúng ta nên cùng nhau nghiền ngẫm lại câu nói của bậc cao tăng Già-la Đồ-lê : hãy bắt đầu bằng việc nói cho bá tính biết những gì họ đang mong muốn biết chứ chưa vội nói với họ tất cả những gì chúng ta biết. Nên làm như thế và hãy cố gắng làm mãi như thế vì Phật giáo là một phần của máu thịt văn hóa Việt Nam chứ không phải là một phương tiện trợ giúp nào đó của văn hóa Việt Nam. Tôi đang nghĩ như vậy còn đúng sai ra sao, xin các bậc tu hành cao minh hoan hỷ chỉ bảo cho.

Tp.HCM, 3-2012

NGUYỄN KHẮC THUẦN

Phó Phân Hiệu Trưởng

Pn Hiệu KHXH & NV

kiêm Trưởng Khoa Việt Nam Học

Trưng đại học Bình Dương


[1] Nghĩa là sinh ra đã có bẩm tính sáng suốt hơn người.

[2] Nghĩa là có thể đủ s ức để chứng minh được các pháp.

[3]Nghĩa là có thể dùng trí tuệ để bảo vệ thân mệnh hoặc làm thay đồi ít nhất cũng là một phần của bản mệnh.

[4] Nghĩa là có thể dùng trí tuệ để tẩy s ạch bụi trần và duyên trần

[5] Nghĩa là mắt có thể nhìn thấu tỏ cả quá khứ, hiện tại và tương lai.

[6] Xin vui lòng tham khảo thêm Nguyễn Khắc Thuần, TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ KHỞI THỦY ĐẾN THẾ KỶ XIX (Nxb. Giáo Dục. Sách đã được tái bản lần thứ 3) hoặc Nguyễn Khắc Thuần, ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM (trọn bộ 5 tập. Nxb. Giáo Dục. Sách đã được tái bản lần thứ 7).

[7] Trí thức được đồng thời trang bị hiểu biết cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.

[8] Đây chỉ là thống kê của cá nhân tôi. Trong khuôn khổ lao động cá nhân, hạn chế là điều không s ao tránh khỏi, vì thế, xin hãy coi đây là một con s ố tham khảo. Tuy nhiên, s ai s ố nếu có cũng không lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/03/2022(Xem: 6040)
Nhân kỷ niệm Ngày đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và hỗ trợ chư Tăng tu hành nơi xứ Phật đang trong lúc khó khăn, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú chung quanh khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
25/03/2022(Xem: 4414)
Nhân Duyên Tâm Luận Tụng Thánh Long Thọ Ấn ngữ:pratītyasamutpāda hṛdaya kārikā Tạng ngữ: rten cing 'brel par 'byung ba'i snying po tshig le'ur byas pa
25/03/2022(Xem: 3159)
Hành giả phải phát khởi các giai đoạn động lực và hành vi vì lợi lạc của tất cả các bà mẹ hữu tình, bao la như không gian, tôi phải thành tựu quả vị giác ngộ viên mãn vô song, và vì mục tiêu này mà tôi nên lắng nghe giáo pháp cao quý. Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi. Bài pháp Tứ Diệu Đế này là khuôn khổ của Phật pháp.
25/03/2022(Xem: 4391)
Hãy phát khởi động lực và hành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian, tôi phải thành tựu giác ngộ vô song và hoàn hảo. Người ta phải nghĩ rằng mục tiêu chánh của việc lắng nghe giáo pháp là để tu tập. Hơn nữa, ý nghĩa của việc tu tập là để giúp tâm thoát khỏi phiền não hay vọng tưởng, và đó là ý nghĩa của việc thực hành Pháp. Vì vậy, động lực tích cực và hành vi tích cực là điều cần thiết ở đây, bởi vì khi càng có động lực và hành vi tốt đẹp hơn, thì việc tu tập Pháp sẽ trở nên hữu hiệu hơn.
25/03/2022(Xem: 3877)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả, vì ước nguyện thành tựu quả vị hoàn hảo và giác ngộ viên mãn, vì lợi lạc của tất cả bà mẹ hữu tình, rộng lớn như không gian bao la. Hãy điều chỉnh động lực lắng nghe giáo pháp bằng tư tưởng đặc biệt này.
11/03/2022(Xem: 4432)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên? Câu trả lời theo sử Phật Giáo: đó là bài Kinh vô ngôn, nội dung bài Kinh là lòng biết ơn. Lúc đó, Đức Phật đã bày tỏ lòng biết ơn cây Bồ Đề (cây Pippala), nơi Ngài ngồi dưới cội cây và được che mưa nắng nhiều tuần lễ cho tới khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Một điểm đặc biệt: biết ơn nhưng không dính mắc, vẫn luôn luôn nhìn thấy thế giới này trong thực tướng vô ngã.
11/03/2022(Xem: 6116)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Bát cháo sữa của nàng thôn nữ Sujata tuy giá trị rất nhỏ, nhưng mang lại lợi ích cho nhân loại và quả địa cầu là rất lớn, vì nhờ đó mà Sa-môn Gautama không chết do kiệt sức. Những giúp đỡ nho nhỏ, từ thiện nho nhỏ, đôi lúc có giá trị lớn & có ý nghĩa lớn. Học theo gương hạnh của Sujata, chúng con, chúng tôi nguyện làm tất cả việc thiện bằng các điều kiện có thể, nhằm xoa dịu phần nào sự khốn khó của tha nhân trong thời buổi nhiều khó khăn này..
08/03/2022(Xem: 11544)
Qua thông tin của truyền thông đại chúng ( các đài truyền Úc và Vietface tivi) suốt 2 tuần qua tiểu bang New South Wales và Queensland, Úc Châu, đã hứng chịu những cơn mưa như trút nước chưa từng có trong nhiều thập niên qua, từ đó dẫn đến những cơn lũ lụt lớn, khiến cho hàng nghìn người phải sơ tán và nước lũ cũng cuốn trôi nhiều tài sản, gia súc, phá hủy các tuyến đường giao thông giữa 2 tiểu bang miền đông nước Úc này. Riêng tại New South Wales, có hơn 11 vùng hiện bị ngập nước là: Chipping Norton, East Hills, Georges Hall, Holsworhy, Lansvale, Milperra, Moorebank, Warwick Farm, Sandy Point, Pleasure Point, Picnic Point.Trong khi tại tiểu bang Queensland có hơn 18.000 ngôi nhà ở phía đông nam Queensland được cho là đã bị ngập lụt, và gần 60.000 ngôi nhà khác trên toàn khu vực bị mất điện. Tính cho đến giờ này chúng tôi đang viết thư ngỏ này vào 9 giờ sáng 8/3/2022, tiểu bang Queensland có 13 người chết và NSW có 4 người tử vong vì trận lụt kinh hoàng này.
05/03/2022(Xem: 4269)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 3834)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]