Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

27/12/201222:56(Xem: 6773)
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
THÍCH NHẬT TỪ
10 ĐIỀU TÂM NIỆM
Hiệu chỉnh phiên tả:
Thích Nữ Tâm Minh, Thích Nữ Huệ Xuân
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC



MỤC LỤC
MuoiDieuTamNiem-contentThay lời tựa
Điều 1: Tu trong bệnh tật
Ứng dụng Tứ diệu đế
Đừng cầu không bệnh tật
Cách đức Phật vô hiệu hóa khổ đau
Giúp người thân vượt qua khổ đau
Điều 2: Tu trong hoạn nạn
Không sợ hoạn nạn
Quán vô ngã để vượt qua hoạn nạn
Hoạn nạn là thường tình
Phớt lờ thị phi
Giá trị của rũ bỏ tích cực
Điều 3,4: Sở học thấu đáo và đạo hạnh thanh cao
Các cõi quy chiếu vào tâm
Làm chủ tâm ý
Nền tảng Phật pháp cần nắm
Hai lớp nghĩa của lời Phật
Truyền thống và tiếp biến
Đại nghi đại ngộ
Xây dựng đạo hạnh
Nghịch cảnh và đạo hạnh
Điều 5, 6, 7: Thái độ lập nghiệp
Thái độ lập nghiệp
Lợi hành vô ngã vị tha
Không bận tâm trước khen chê
Điều 8,9,10: Ân nghĩa và oan trái
Thi ân bất cầu báo
Danh lợi là phù hoa
Chuyển hóa nỗi oan
Nói thật để giải oan
Im lặng như thiền định
Đừng để kiên nhẫn bị hàm oan
Nỗi oan Thị Kính
Tuyên bố sự thật
Vấn đáp

THAY LỜI TỰA

Cấu trúc củaMười điều tâm niệm gồm ba phần:

- Phần một,mô tả về mười nghịch cảnh với các đối tượng và cách đối trị để tất cả hành giảphải giữ chánh niệm và tỉnh thức, nhằm thấy được “mặt mũi” của chúng, nguyênnhân và cách thức đối trị.

- Phần hailà giải pháp đối trị, tìm đối tượng có tính đối lập ở mức độ cao nhất hay hơn đểtừ vế A của hiện thực khổ đau, ta có được vế B của tâm linh như là kết quả tấtyếu của sự hành trì.

- Phần ba làphần khuyến tu như tựa đề chung của tác phẩm Bảo vương tam muội niệm Phật trựcchỉ, để giúp ta thấy rõ hiện tính vô thường như bản chất và quy luật của sựvật hiện tượng để từ đó ta không quá bận tâm về những đổi thay liên hệ đến bảnthân và tất cả những gì diễn ra xung quanh.

Trong phươngpháp tu học của Phật giáo Bắc tông, vấn đề quán chiếu trên tâm niệm được xemnhư là phương pháp hành trì phổ biến nhất. Tác phẩm Mười điều tâm niệm đãđược dịch và in ấn hầu hết trong các bản kinh tiếng Việt. Xuất xứ trong Đạichánh tân tu đại tạng kinh quyển 47 trang 373. Nội dung tác phẩm nhằm cô đọngvề phương pháp khích tấn

hành giả tutập, được trích trong Luận bảo vương tam muội niệm Phật trực chỉ của Hòathượng Diệu Hiệp và trở thành phổ biến trong sự tu học của Phật tử Bắc tông.

Trong các bảnkinh, trang cuối thường có ghi Mười điều tâm niệm, và bên cuối dòng ghichú Luận bảo vương tam muội. Nội dung nhằm chỉ thẳng về kỹ năng niệm Phật,giúp cho hành giả thiết lập được chánh niệm nhứt tâm bất loạn. Ai đạt đượcphương pháp thực tập như thế, thì sẽ sống trong thiền định mang tính cách là Bảovương.

Tam muội làmột loại thiền định, Bảo vương là tên của một loại ngọc quý. Trong kinh thườngmô tả ngọc ngà, pha lê, mã não, san hô, hổ phách, trân châu. Gồm bảy loại ngọcquý; vua các loại ngọc quý này được hiểu theo kinh điển Ðại thừa chính là kimcương. Kim cương được đức Phật sử dụng ẩn dụ sánh ví cho tuệ giác mà hành giảcó thể đạt được thông qua tiến trình tu tập và hành trì. Khi đã đạt được tuệgiác Bảo vương tam muội, hành giả sẽ rất nhẹ nhàng và thư thái trong sinh hoạt,không bị vướng chấp trong tình đời; vươn lên, phấn chấn, tấn tu trong mọi chướngduyên, do vậy không có gì làm trở ngại.

Tại Việt Namsự ứng dụng phổ biến của Mười điều tâm niệm vượt lên trên sự ứng dụng và hànhtrì của Phật tử Trung Quốc. Nguyên tác của tác phẩm, trong phần chính văn khôngcó tiêu đề Mười điều tâm niệm mà là Mười chướng duyên hay Mười điều buông xả.Hòa thượng Trí Quang - dịch giả của tác phẩm đã chỉnh sửa tựa đề nhằm phù hợp vớinội dung trong bối cảnh tu học của Phật tử Việt Nam để có sự hài hòa giữa Thiềntông và Tịnh Độ tông

Chữ “Tâm niệm”gợi lên sự thực tập, tiến trình của nó được diễn ra theo hai vế. Vế một là sựkiện có thực bao gồm rất nhiều điều không như ý. Vế hai là quán tưởng để mở ra

một nội dungtâm linh. Trên cơ sở đó ta quên được nỗi khổ niềm đau. Kết quả còn lại là sựchuyển hóa tâm thức.

Việc thực tậpcần phải được ghi nhớ trong tâm. Nghĩa là lúc nào hành giả cũng phải nhớ, và ứngxử trên nền tảng của những điều đạo lý được giảng dạy.

Tâm niệm làmột tiến trình tự ý thức, nhằm nâng cao năng lực và sự tập trung của ta hướng đếnmột mục đích cao thượng tốt đẹp. Học thuộc lòng chỉ là cách cài đặt dữ liệu vàotrong kho tàng trí thức, ký ức của con người. Qua thời gian, các dữ liệu của sựthuộc lòng có thể quên mất bởi vì nó không gây một sự chấn động tâm nào hay mộtý niệm sâu sắc nào có thể dẫn đến khuynh hướng hành động trong cuộc sống. Trongkhi đó, những điều quan trọng được chư Phật và các vị Tổ sư Phật giáo dạy ta phảitâm tâm niệm niệm. Nghĩa là trong mỗi khoảnh khắc thời gian trôi qua, ta phảiluôn ghi nhớ những điều này trong tâm khảm của mình, để trước nhất trở thành phảnứng có điều kiện và sau đó trở thành phản ứng vô điều kiện. Hành giả tiếp nhậnnó một cách linh hoạt trong hoàn cảnh hay điều kiện nào, con người cũng có thể ứngxử và ứng dụng nó nhằm giúp mình được lợi lạc và an vui.

Như vậy, Mườiđiều tâm niệm không chỉ là những điều ta học thuộc lòng, vì đó chỉ là tính năngtheo thói quen biến nó trở thành mình. Trong khi tâm niệm là sự quán chiếu thườngxuyên dưới góc độ của tác động tỉnh thức, làm tâm không bị phiền não, nghiệpchướng, trần ô tác động chi phối. Học thuộc lòng mà không có sự quán chiếu thìtâm sẽ như cái máy, lặp lại những triết lý mà tính minh triết chỉ có mặt khi sựquán chiếu được thực tập.

TT. Thích NhậtTừ

Tổng Biên tập

Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay

Xem chi tiết nội dung (phiên bản PDF): MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM - Thích Nhật Từ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8194)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
24/09/2010(Xem: 6988)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 5506)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 9821)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 11181)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 9589)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 10308)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 8710)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 5515)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 6343)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567