TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY Thay lời tựaTHÍCH NHẬT TỪ 10 ĐIỀU TÂM NIỆM Hiệu chỉnh phiên tả: Thích Nữ Tâm Minh, Thích Nữ Huệ Xuân NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC MỤC LỤC Điều 1: Tu trong bệnh tật Ứng dụng Tứ diệu đế Đừng cầu không bệnh tật Cách đức Phật vô hiệu hóa khổ đau Giúp người thân vượt qua khổ đau Điều 2: Tu trong hoạn nạn Không sợ hoạn nạn Quán vô ngã để vượt qua hoạn nạn Hoạn nạn là thường tình Phớt lờ thị phi Giá trị của rũ bỏ tích cực Điều 3,4: Sở học thấu đáo và đạo hạnh thanh cao Các cõi quy chiếu vào tâm Làm chủ tâm ý Nền tảng Phật pháp cần nắm Hai lớp nghĩa của lời Phật Truyền thống và tiếp biến Đại nghi đại ngộ Xây dựng đạo hạnh Nghịch cảnh và đạo hạnh Điều 5, 6, 7: Thái độ lập nghiệp Thái độ lập nghiệp Lợi hành vô ngã vị tha Không bận tâm trước khen chê Điều 8,9,10: Ân nghĩa và oan trái Thi ân bất cầu báo Danh lợi là phù hoa Chuyển hóa nỗi oan Nói thật để giải oan Im lặng như thiền định Đừng để kiên nhẫn bị hàm oan Nỗi oan Thị Kính Tuyên bố sự thật Vấn đáp THAY LỜI TỰA Cấu trúc củaMười điều tâm niệm gồm ba phần: - Phần một,mô tả về mười nghịch cảnh với các đối tượng và cách đối trị để tất cả hành giảphải giữ chánh niệm và tỉnh thức, nhằm thấy được “mặt mũi” của chúng, nguyênnhân và cách thức đối trị. - Phần hailà giải pháp đối trị, tìm đối tượng có tính đối lập ở mức độ cao nhất hay hơn đểtừ vế A của hiện thực khổ đau, ta có được vế B của tâm linh như là kết quả tấtyếu của sự hành trì. - Phần ba làphần khuyến tu như tựa đề chung của tác phẩm Bảo vương tam muội niệm Phật trựcchỉ, để giúp ta thấy rõ hiện tính vô thường như bản chất và quy luật của sựvật hiện tượng để từ đó ta không quá bận tâm về những đổi thay liên hệ đến bảnthân và tất cả những gì diễn ra xung quanh. Trong phươngpháp tu học của Phật giáo Bắc tông, vấn đề quán chiếu trên tâm niệm được xemnhư là phương pháp hành trì phổ biến nhất. Tác phẩm Mười điều tâm niệm đãđược dịch và in ấn hầu hết trong các bản kinh tiếng Việt. Xuất xứ trong Đạichánh tân tu đại tạng kinh quyển 47 trang 373. Nội dung tác phẩm nhằm cô đọngvề phương pháp khích tấn hành giả tutập, được trích trong Luận bảo vương tam muội niệm Phật trực chỉ của Hòathượng Diệu Hiệp và trở thành phổ biến trong sự tu học của Phật tử Bắc tông. Trong các bảnkinh, trang cuối thường có ghi Mười điều tâm niệm, và bên cuối dòng ghichú Luận bảo vương tam muội. Nội dung nhằm chỉ thẳng về kỹ năng niệm Phật,giúp cho hành giả thiết lập được chánh niệm nhứt tâm bất loạn. Ai đạt đượcphương pháp thực tập như thế, thì sẽ sống trong thiền định mang tính cách là Bảovương. Tam muội làmột loại thiền định, Bảo vương là tên của một loại ngọc quý. Trong kinh thườngmô tả ngọc ngà, pha lê, mã não, san hô, hổ phách, trân châu. Gồm bảy loại ngọcquý; vua các loại ngọc quý này được hiểu theo kinh điển Ðại thừa chính là kimcương. Kim cương được đức Phật sử dụng ẩn dụ sánh ví cho tuệ giác mà hành giảcó thể đạt được thông qua tiến trình tu tập và hành trì. Khi đã đạt được tuệgiác Bảo vương tam muội, hành giả sẽ rất nhẹ nhàng và thư thái trong sinh hoạt,không bị vướng chấp trong tình đời; vươn lên, phấn chấn, tấn tu trong mọi chướngduyên, do vậy không có gì làm trở ngại. Tại Việt Namsự ứng dụng phổ biến của Mười điều tâm niệm vượt lên trên sự ứng dụng và hànhtrì của Phật tử Trung Quốc. Nguyên tác của tác phẩm, trong phần chính văn khôngcó tiêu đề Mười điều tâm niệm mà là Mười chướng duyên hay Mười điều buông xả.Hòa thượng Trí Quang - dịch giả của tác phẩm đã chỉnh sửa tựa đề nhằm phù hợp vớinội dung trong bối cảnh tu học của Phật tử Việt Nam để có sự hài hòa giữa Thiềntông và Tịnh Độ tông Chữ “Tâm niệm”gợi lên sự thực tập, tiến trình của nó được diễn ra theo hai vế. Vế một là sựkiện có thực bao gồm rất nhiều điều không như ý. Vế hai là quán tưởng để mở ra một nội dungtâm linh. Trên cơ sở đó ta quên được nỗi khổ niềm đau. Kết quả còn lại là sựchuyển hóa tâm thức. Việc thực tậpcần phải được ghi nhớ trong tâm. Nghĩa là lúc nào hành giả cũng phải nhớ, và ứngxử trên nền tảng của những điều đạo lý được giảng dạy. Tâm niệm làmột tiến trình tự ý thức, nhằm nâng cao năng lực và sự tập trung của ta hướng đếnmột mục đích cao thượng tốt đẹp. Học thuộc lòng chỉ là cách cài đặt dữ liệu vàotrong kho tàng trí thức, ký ức của con người. Qua thời gian, các dữ liệu của sựthuộc lòng có thể quên mất bởi vì nó không gây một sự chấn động tâm nào hay mộtý niệm sâu sắc nào có thể dẫn đến khuynh hướng hành động trong cuộc sống. Trongkhi đó, những điều quan trọng được chư Phật và các vị Tổ sư Phật giáo dạy ta phảitâm tâm niệm niệm. Nghĩa là trong mỗi khoảnh khắc thời gian trôi qua, ta phảiluôn ghi nhớ những điều này trong tâm khảm của mình, để trước nhất trở thành phảnứng có điều kiện và sau đó trở thành phản ứng vô điều kiện. Hành giả tiếp nhậnnó một cách linh hoạt trong hoàn cảnh hay điều kiện nào, con người cũng có thể ứngxử và ứng dụng nó nhằm giúp mình được lợi lạc và an vui. Như vậy, Mườiđiều tâm niệm không chỉ là những điều ta học thuộc lòng, vì đó chỉ là tính năngtheo thói quen biến nó trở thành mình. Trong khi tâm niệm là sự quán chiếu thườngxuyên dưới góc độ của tác động tỉnh thức, làm tâm không bị phiền não, nghiệpchướng, trần ô tác động chi phối. Học thuộc lòng mà không có sự quán chiếu thìtâm sẽ như cái máy, lặp lại những triết lý mà tính minh triết chỉ có mặt khi sựquán chiếu được thực tập. TT. Thích NhậtTừ Tổng Biên tập Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay Xem chi tiết nội dung (phiên bản PDF): MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM - Thích Nhật Từ |