Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sáu Ba La Mật

02/12/201200:15(Xem: 7188)
Sáu Ba La Mật

SÁU BA LA MẬT
Nguyễn Thế Đăng

Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh để đi đến sự sáng tỏ hoàn toàn của tâm thức.

Một trong vài cuốn kinh lưu hành đầu tiên ở Việt Nam (Giao Chỉ) là do một người Việt là sư Khương Tăng Hội dịch. Kinh này có thể được dịch ở Đông Ngô, nhưng chắc chắn ngài có gởi về quê hương ngài để lưu hành. Bản kinh đó là Lục Độ Tập Kinh,nói về sáu độ, tức là sáu ba-la-mật. Từ khởi thủy Phật giáo Việt Nam đã bắt đầu bằng con đường Bồ-tát hạnh, để xuất hiện những triều đại Bồ-tát như Thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn (đời Lý), Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông (đời Trần), và con đường ấy kéo dài cho đến ngày nay, mặc cho bao nhiêu thịnh suy của đất nước.

I. Từ ngọn đến gốc

Ba-la-mật đầu tiên là Bố thí. Bố thí thì rõ ràng là sự tích tập phước đức rồi. Ba-la-mật cuối cùng là Trí huệ (hay phiên âm từ tiếng Sanscrit là Bát-nhã). Cực bên này là phước đức do bố thí bởi lòng bi. Cực bên kia là trí huệ do thực hành trí huệ quán chiếu tánh Không. Bốn ba-la-mật giữa là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định đều có sự giao hòa giữa phước đức và trí huệ.

Khi đã tròn đủ sáu ba-la-mật, vị ấy có đầy đủ phước đức và trí huệ. Tâm của vị ấy là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi.

Sự hoàn thiện phước đức và trí huệ của sáu ba-la-mật đều dựa vào luật nhân quả.

1. Bố thí ba-la-mật:Bố thí có vẻ là việc dễ làm nhất. Chưa có ai chưa từng cho hay biếu tặng người khác một cái gì. Ngay trong đời sống bình thường, bố thí là một bổn phận làm nên đời sống: cha mẹ bố thí cho con cái tiền lương, công sức, sức khỏe của mình. Cha mẹ bố thí cho con cái, và cũng nhận được từ con cái niềm vui, ý nghĩa làm cha mẹ. Trong kinh tế thị trường, sản xuất, buôn bán, trao đổi là cho và nhận. Nếu mọi người không muốn cho ai cái gì hết và nhận lại cái gì hết thì xã hội cũng không có. Trong bố thí, người ta nhận ra người khác, ai cũng muốn vui sướng và tránh khổ đau như mình. Đó là lòng từ bi.

Bố thí gồm tài thí, cho tiền và vật; vô úy thí, cho sự không sợ hãi, chẳng hạn ngăn không cho một con chó rượt một em bé. Và pháp thí, cho chánh pháp, mà dễ thấy là sự thuyết pháp.

Theo luật nhân quả, bố thí thì tâm thường hoan hỷ, không có khổ do sợ hãi thiếu thốn, sanh ở đâu cũng được giàu có, địa vị lớn, bạn bè giúp đỡ, quyến thuộc danh giá…

Bố thí là ba-la-mật đầu tiên. Ở trong hàng thánh thì bậc Sơ địa chủ yếu tu Bố thí ba-la-mật, còn Trí huệ Ba-la-mật được tu chủ yếu ở địa thứ sáu Hiện tiền địa. Nhưng bố thí không phải chỉ ở giai đoạn đầu của con đường Bồ-tát, sau đó được bỏ đi. Chẳng hạn bố thí pháp thì phải ở địa thứ chín, Thiện huệ địa, mới hoàn hảo. Bố thí có mặt trong các ba-la-mật khác. Chẳng hạn thiền định (ba-la-mật thứ năm) xong thì người ta hồi hướng, nghĩa là bố thí công đức ấy cho những người khác.

Bố thí có mặt khắp đầu và cuối con đường. Bố thí không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả của giác ngộ. Vì bố thí là một biểu lộ của đại bi, mà mục đích của Bồ-tát là tròn đủ hai cái, trí huệ và đại bi.

2. Giữ giới ba-la-mật:Giữ giới làm cho thân tâm trong sạch bằng cách không phạm vào điều xấu ác (nhiếp luật nghi giới). Giữ giới là làm những điệu thiện (nhiếp thiện pháp giới). Giữ giới là làm lợi ích tốt đẹp cho những người khác (nhiêu ích hữu tình giới).

Do giới mà có thân thể tốt đẹp, tâm trí sáng suốt, được sanh vào nơi cao cấp.

Giữ giới như vậy là tạo ra một xã hội thiện lành an vui.

3. Nhẫn nhục ba-la-mật:Thực hành nhẫn thì được phước như có thân thể khỏe mạnh, không bệnh tật, không có người chống đối thù oán, được nhiều người giúp đỡ nghe theo, quyến thuộc lớn (vì nhẫn thì có nhiều người theo)…

Nhẫn là chịu đựng một cách bình an những điều không muốn nhận mà người khác bắt mình phải nhận. Nhưng nếu nhận như vậy mà cho lại lòng từ bi thì được phước của từ bi.

Phối hợp với trí, nhẫn sẽ dẫn đến giải thoát, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Ba ba-la-mật đầu này có nhiều hàm lượng của phước, người xưa gọi là Tăng thượng sinh đạo, con đường của đời sống thịnh vượng trong ba cõi thế gian.

Ba ba-la-mật sau được gọi là Quyết định thắng đạo,con đường đi đến trí huệ, giải thoát.

4. Tinh tấn Ba-la-mật:Tinh tấn thông cả hai đầu phước đức và trí huệ. Người ta có thể tinh tấn trong việc làm lợi ích cho người như bố thí. Người ta cũng có thể tinh tấn trong việc quán chiếu của Trí huệ Bát-nhã, tức là thắp sáng ngọn đèn trí huệ.

Tinh tấn làm tăng thêm thích thú, hoan hỷ, an vui, vì tinh tấn trong điều thiện thì các điều xấu ác không còn nhiễu loạn phá hoại.

5. Thiền định Ba-la-mật:Thiền định làm tâm an ổn, tĩnh lặng. Trí huệ quán sát nương vào sự tĩnh lặng này mà hoạt động.

Thiền định làm cho thân thể khỏe mạnh, trong tâm thì những phiền não bị nép phục, do đó thân tâm được an vui (lợi mình), và tâm thanh tịnh an vui thì không muốn gây lo buồn, tổn hại cho người, trái lại, tâm đủ khỏe mạnh để làm lợi lạc cho người khác (lợi người).

6. Trí huệ (Bát-nhã) Ba-la-mật:Sự sử dụng trí huệ liên tục quán sát đưa chúng ta đến giải thoát. Giải thoát là cởi bỏ những ràng buộc tự mình trói lấy mình do chấp ngã và chấp pháp. Vì trí huệ quán sát khiến dần dần chúng ta thấy được các sự vật và chính ta đều do duyên sanh, nên chúng không tự hữu, không có tự tánh, và do đó là tánh Không.

Chính trí huệ soi thấy trực tiếp và triệt để tánh Không đưa đến giải thoát. Hơn nữa, giải thoát ngay khi đang bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… nghĩa là không bị trói buộc vào việc bố thí hay làm điều thiện, vào đối tượng được bố thí, và vào phước đức của bố thí. Giải thoát ngay khi đang hành động là một đặc điểm của Trí huệ ba-la-mật.

Trí huệ này là nền tảng, là căn bản của đạo Phật. Vì bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập trung, thậm chí đến mức khổ hạnh, những tôn giáo khác đều có. Sự khác biệt duy nhất giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là mọi hành vi tôn giáo, kể cả cử hành khóa lễ, sám hối…, tất cả những hành động này được làm với trí huệ soi thấy tánh Không, được làm trong tánh Không.

Chúng ta cần thấy sự quan trọng đặc biệt của Trí huệ ba-la-mật. Chính trí huệ này làm cho năm hạnh kia thành “ba-la-mật”. Ba-la-mật nghĩa là “rốt ráo, giải thoát, đến bờ bên kia, hoàn toàn”. Chính tánh Không làm cho năm hạnh trước thành rốt ráo, giải thoát, hoàn toàn, nghĩa là thành năm ba-la-mật. Thế nên hệ thống kinh Bát-nhã, tuy luôn luôn nói đầy đủ cả sáu ba-la-mật, nhưng vẫn nhấn mạnh và nói nhiều nhất đến Trí huệ ba-la-mật. Vì thế, những bộ kinh đó có tên chung là Bát-nhã ba-la-mật, tức là Trí huệ ba-la-mật.

Kinh Kim Cương,thuộc về hệ thống kinh Bát-nhã, có nói: “Bồ-tát không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí… Nếu Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, thì phước đức ấy là không thể tính đếm đo lường”.

Nếu không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí thì người ấy trong khi bố thí đã ở trong tánh Không, mà tánh Không là phước đức vô lượng vô biên, không thể đo lường.

Từ đoạn kinh này chúng ta có thể thấy ra ba con đường. Trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí, đó là con đường của người đời, của đời sống thế gian, của phước đức hữu hạn vì thuộc thế gian.Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng cũng không tạo phước đức, không bố thí, đó là con đường của Thanh Văn, chỉ nhắm đến giải thoát. Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng vẫn bố thí, vẫn không bỏ phước đức bằng cách làm lợi lạc cho người khác, đó là con đường Bồ-tát. Đây là con đường hợp nhất phước và trí, con đường đưa phước đức hữu hạn thành phước đức vô hạn của tánh Không.

II. Từ gốc đến ngọn

Khi đã thực hành được quán chiếu Bát-nhã, nghĩa là quán chiếu tánh Không, thì Trí huệ ba-la-mật trở thành cội gốc, nền tảng của năm ba-la-mật trước, bởi vì tánh Không là Nền tảng, cũng là Con đường và Quả của thực hành Đại thừa.

Khi ấy bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… đều nương dựa vào, y cứ vào, an trụ trong Trí huệ Bát-nhã:

“Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Bố thí ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sanh tâm tham tiếc vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Giữ giới ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng dính mắc nơi có tội cùng không tội vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Nhẫn nhục ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sân hận vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Tinh tấn ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, thân tâm luôn tinh tấn chẳng trễ nãi thôi nghỉ vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Thiền định ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng loạn động chẳng say mê thiền vị vậy”. (Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, phẩm Vãng sanh).

Nhờ y cứ trên thực hành Bát-nhã, an trụ trong tánh Không mà năm ba-la-mật trở thành vô lượng vô biên:

“Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát nhã ba-la-mật này làm vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ vô đẳng đẳng bố thí ba-la-mật, được vô đẳng đẳng thân và vô đẳng đẳng pháp. Đây chính là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như Bố thí ba-la-mật, năm Ba-la-mật kia cũng như vậy.

Đức Thế Tôn cũng vốn đã thực hành Bát nhã ba-la-mật này mà đầy đủ sáu ba-la-mật, được vô đẳng đẳng pháp, được vô đẳng đẳng sắc thọ tưởng hành thức, thành Phật, chuyển vô đẳng đẳng pháp luân” (Phẩm Tán thán ba-la-mật).

Bát nhã ba-la-mật được ca ngợi vì Bát nhã ba-la-mật chính là tánh Không, tức là Nền tảng, Con đường và Quả. Ở đây chỉ xin trích ra một số câu trong phẩm Ca ngợi khắp trăm ba-la-mật:

“Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Vô biên ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì như hư không vô biên vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bình đẳng ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì các pháp bình đẳng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Ly ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì rốt ráo rỗng không vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất hoại ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất khả thuyết ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì giác quán bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất sanh vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất động ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì pháp tánh thường trụ vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Tịch diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tướng của tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô phiền não ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì phân biệt nhớ tưởng là hư vọng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô chúng sanh ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì chúng sanh vô sở hữu vậy”.

Từ cội gốc hay nền tảng Bát-nhã này, người tu Bồ-tát hạnh hoàn thiện năm ba-la-mật kia:

“Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm hành Bố thí ba-la-mật, đúng với tâm Nhất thiết trí mà bố thí cho Phật hoặc Độc giác Phật hoặc Thanh văn, hoặc cho người hay loài chẳng phải người. Đại Bồ-tát này lúc ấy chẳng sanh tưởng niệm bố thí, chẳng sanh tưởng niệm lãnh thọ. Tại sao thế? Vì quán tất cả pháp tự tướng Không, không sanh, không có tướng cố định, không có chỗ chuyển động, mà nhập vào thật tướng của các pháp. Đó là tướng vô tác vô khởi của tất cả các pháp.

Đại Bồ-tát ấy dùng sức phương tiện này làm cho thiện căn thêm lớn. Vì thiện căn thêm lớn mà hành Bố thí ba-la-mật, tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh, bố thí mà chẳng hưởng thọ quả báo thế gian. Đại Bồ-tát chỉ vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh mà hành Bố thí ba-la-mật” (Phẩm Trồng thiện căn).

Ba ba-la-mật đầu chủ về phước, ba ba-la-mật sau chủ về trí.

Nhờ sáu ba-la-mật nhiếp nhập lẫn nhau (phẩm Lục độ tương nhiếp) mà người ta đi trên con đường Bồ-tát đạo. Vì phước là cứu giúp chúng sanh nên Bồ-tát không trụ Niết-bàn; vì trí là soi thấy tánh Không của tất cả các pháp cho nên Bồ-tát không trụ trong sanh tử.

Con đường Bồ-tát không phải chỉ là sự giải thoát cho mình, mà còn lợi lạc cho người. Con đường Bồ-tát không phải là giải thoát khỏi tất cả pháp, mà là tự tại ở trong tất cả pháp:

“Đại Bồ-tát hành sáu ba-la-mật thì đầy đủ tất cả các thiện căn, sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát phải quán sắc chẳng hợp chẳng tan, thọ tưởng hành thức chẳng hợp chẳng tan, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng hợp chẳng tan. Đại Bồ-tát phải suy nghĩ như vầy: Tôi chẳng nên trụ trong sắc thọ tưởng hành thức cho đến trụ trong Nhất thiết chủng trí. Vì sao thế? Vì sắc không chỗ trụ, vì thọ tưởng hành thức không chỗ trụ, cho đến Nhất thiết chủng trí cũng không chỗ trụ.

Đại Bồ-tát dùng pháp vô trụ tập hành sáu ba-la-mật thì sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát muốn tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh thì phải học Bát nhã ba-la-mật. Học Bát nhã ba-la-mật thì được tự tại ở trong tất cả các pháp” (Phẩm Đại phương tiện).

Kinh điển Phật giáo thường nói, đạo Phật là con đường tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu, tốt đẹp hoàn hảo ở chặng giữa, và tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng. Tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng như tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu nghĩa là cái gì có ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu. Cái tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu, cái ấy là tánh Không. Tánh Không và sự quán chiếu tánh Không, tức là Bát nhã ba-la-mật, đã có ngay từ bước đầu tiên cho đến bước cuối cùng. Thế nên, con đường Bát nhã ba-la-mật là sự khai triển cho đến viên mãn cái đã có ngay từ bước đầu tiên vậy.

Văn hóa Phật giáo số 165
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/06/2014(Xem: 12223)
Phật Giáo được thực hành tại nhiều nước Á Đông dưới nhiều hình thức, sự khác biệt là do bởi những tín đồ là con cháu của những người lập nghiệp ban đầu đến từ Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, v.v...Cũng có nhiều người đơn giản tự gọi mình là "Phật tử" và thực hành một số nghi lễ mà họ học được từ cha ông dưới danh nghĩa của tôn giáo này.
02/06/2014(Xem: 10470)
Mùa xuân năm nay, tại Đạo tràng Mai Thôn đã diễn ra Đại giới đàn Cam Lộ Vị, bắt đầu từ ngày 23.05 đến ngày 28.5.2014. Lễ rước giới bổn được tổ chức thật long trọng tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng. Dường như đất trời cũng hòa chung niềm vui của tứ chúng Làng Mai trong ngày khai mạc Đại giới đàn. Ngay khi giới bổn được rước vào thiền đường Nước Tĩnh thì trời bổng nhiên đổ mưa. Những giọt nước cam lộ rơi xuống làm cho đất trời và lòng người đều mát mẻ, thanh lương.
01/06/2014(Xem: 19432)
Đây là tập sách do chúng tôi biên soạn, đặc biệt, là những bài mang tính cách lễ nghi hành trì. Những bài, do chúng tôi biên soạn gồm có: “Oai nghi của một tu sinh, những nghi thức dành cho khóa tu, bài hát sinh hoạt đạo tràng”. Ngoài ra, còn có những bài sám, nghi thức lạy thù ân, mà chúng tôi đã sưu tập kết hợp lại để vào trong tập sách này.
30/05/2014(Xem: 10210)
Báo Tuổi trẻ cách đây ít ngày có đăng câu chuyện về một người Mỹ có một cô con nuôi gốc Việt ở với ông từ hồi còn bé , nhưng cô ấy vẫn nói tiềng Việt nhu một người Việt Nam thuần túy . Điều tôi muốn nói đây không phải về người con nuôi gốc Việt , mà về ông cha nuôi người Mỹ . ông ta là thi sĩ và là giáo sư đại học , tên Bruce Weigl.
30/05/2014(Xem: 11389)
Tôi được gặp và quen thầy Pháp Bảo vào năm 1999 trong dịp đi lễ Vu Lan tại chùa Thuyền Lâm cùng với ba mẹ. Lúc đó thầy còn là chú và tôi hay gọi là chú Tấn. Sau thời gian dài vào tu học ở Sài Gòn, trong chuyến thầy ra Huế kỵ tổ ở chùa Thuyền Lâm, tôi mới gặp lại thầy Pháp Bảo. Trong câu chuyện hỏi thăm, lần đầu tiên tôi nghe thầy tâm sự về gia đình thầy. Trong lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi xúc động đến kỳ lạ khi nghe câu chuyện về mẹ và anh chị em của thầy. Tôi thật sự rất khâm phục và tự hào về tình cảm thương yêu, hiếu kính của gia đình thầy.
28/05/2014(Xem: 9032)
Thật ra nếu không yêu thương thì làm sao sống được? Xã hội bây giờ có nhiều người tự tử, trong đó có rất nhiều người trẻ, đó là vì họ không có khả năng thương yêu. Thương yêu trước hết là thương yêu cuộc đời. Phải yêu cuộc đời thì mới sống được. Cuộc đời ở trong cơ thể mình, trong tim mình, ở xung quanh mình. Chán đời thì không sống được. Vì vậy chúng ta phải thực tập “yêu đời”. Sự sống là một cái gì rất quý giá.
27/05/2014(Xem: 8317)
Tôi tiễn tuần cũ với 2 sự kiện quan trọng: thứ 7 là buổi nói chuyện với mấy trăm bạn trẻ mới đi làm tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình về chủ đề “Tư duy để thành công” và chủ nhật là chia sẻ với vài trăm phật tử tỉnh Hòa Bình về chủ đề “Giàu và nghèo”. Niềm vui thật giản đơn khi bằng cách này hay cách khác tôi đã chia sẻ những lời Phật dạy với bất cứ ai có thể. Đối với tôi, việc này cũng như ăn, cũng như cách mình nạp năng lượng, nhưng chỉ có khác là không ăn bằng miệng mà bằng não, bằng tâm. Đầu tuần tôi nghe tin nhạc sỹ Thuận Yến qua đời và đám tang diễn ra sáng thứ 3. Giật mình!
27/05/2014(Xem: 17822)
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một số bài võ cổ truyền Bình Định tại võ đường Chùa Long Phước (xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước) để các bạn tham khảo, nghiên cứu và học tập...
24/05/2014(Xem: 15793)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.
22/05/2014(Xem: 8157)
Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo: -Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt như vậy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]