Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm tăng ở đâu?

19/10/201010:24(Xem: 6084)
Tìm tăng ở đâu?
TÌM TĂNG Ở ĐÂU?
Minh Tâm

Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha có nghĩa là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà đi tu, giữ đủ giới luật của Phật đặt ra, với tôn chỉ tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha, nhằm mục đích giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Trong đoàn thể Tăng già gồm có nam lẫn nữ, nam được gọi là Tỳ khưu, nữ gọi là Tỳ khưu Ni, nhưng bắt buộc phải sống riêng rẽ trong các chùa hoặc tu viện, chứ không được sống chung dưới một mái chùa. Phật giáo Việt Nam dùng danh từ Tăng để chỉ phái nam xuất gia và Ni để chỉ phái nữ xuất gia, nhưng thật ra thì các vị Ni cũng vẫn ở trong đoàn thể Tăng già (Sangha).

Muốn được gọi là Tăng (cả nam lẫn nữ) điều kiện bắt buộc là phải xuất gia, cạo đầu, mặc quần áo nhà chùa, giữ đủ Cụ túc giới. Nam giữ 250 giới, nữ giữ 348 giới. Khi cắt ái ly gia nghĩa là cắt đứt mọi tình yêu tầm thường trong đời và lìa khỏi nhà, từ giã gia đình để vào chùa tu, người con Phật phải hiểu rõ ba ý nghĩa của danh từ xuất gia:

1. Xuất thế tục chi gia: Ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏ gia đình, danh lợi trong cuộc sống tầm thường, bỏ luôn cả họ tên để lấy họ Thích và pháp danh do sư trưởng đặt cho. Mọi liên hệ gia đình, họ hàng từ nay chấm dứt, để tu hành tự giác giác tha, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không phân biệt thân sơ.

2. Xuất phiền não chi gia: Ra khỏi nhà phiền não đau khổ nung nấu từ khi mới sinh ra, bị trói buộc trong những sợi dây của tiền bạc, danh vọng, nhà cửa, gia đình, vợ con, ăn ngon mặc đẹp, giao dịch... từ nay xin bỏ hết để tìm đường thoát khổ nạn sinh tử luân hồi cho mình và cho tất cả chúng sinh.

3. Xuất vô minh chi gia: Ra khỏi nhà vô minh tăm tối đã giam hãm chúng sinh trong ba cõi, sáu đường vì tham, sân, si... nay quyết tâm tu hành, dứt trừ vô minh, để tìm ra ánh sáng của chân lý, đạt đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
Sau khi đã xuất gia thọ giới, một vị Tăng phải nhập chúng, nghĩa là sống trong chùa, tu viện hoặc Phật học đường, tuyệt đối không được sống trong tư gia của người thế tục và phải tuân theo Lục hòa:

1. Thân hòa đồng trú: Thân sống hòa thuận tại một nơi với các vị Tăng khác.

2. Khẩu hòa vô tránh: Miệng nói lời hòa thuận, không tranh cãi, to tiếng, nhiều lời, chỉ nói đúng sự thật.

3. Ý hòa đồng duyệt: Tư tưởng hòa thuận vui vẻ với các bạn đồng tu.

4. Giới hòa đồng tu: Tuân theo các giới luật cấm của Phật để tu sửa thân tâm trong niềm hòa ái với mọi người, vui vẻ nhắc nhở nhau cũng giữ giới cho thanh tịnh.

5. Kiến hòa đồng giải: Có những hiểu biết chân chánh, xác thực về đường lối tu hành thì mang ra giải thích cho các bạn tu cùng nghe và hiểu.

6. Lợi hòa đồng huân: Các mối lợi như tiền bạc, thực phẩm, quần áo, thuốc men, sách vở, chăn nệm... của thí chủ cúng dường thì chia nhau thật đều, cùng hưởng trong sự hòa thuận an vui.
Nói rộng thì người xuất gia phải giữ 250 giới, nhưng tóm lại vẫn không ngoài ngũ giới và lục hòa. Người con Phật xuất gia phải giữ giới luật và sống lục hòa, nếu không thì không xứng đáng gọi là Tăng nữa.

Một vị Tăng còn phải sống một cuộc đời hy sinh dứt bỏ, coi tiền bạc như rắn độc, danh lợi như đôi dép rách, sắc đẹp như cạm bẫy, ăn ngon mặc đẹp như xiềng xích buộc ràng, một vị Tăng phải sống Tam thường bất túc, nghĩa là ăn mặc, ngủ nghỉ không được sung túc, đầy đủ. Ăn chay xong việc thì thôi, miễn là khỏe mạnh để tu hành. Áo mặc thì đủ tam y, không rách rưới bẩn thỉu là được. Ngủ nghỉ để giữ gìn sức khỏe, miễn là có nơi yên tỉnh, không ồn ào để tiện việc ngồi thiền, không đòi hỏi phải chăn êm, nệm ấm. Một vị Tăng có sống trong sự bất túc mới thông cảm nỗi khổ với người nghèo, mới thao thức nội tâm để tìm đường cứu khổ cho chúng sinh. Con ngựa ăn no không chạy mạnh kéo khỏe, một vị Tăng ăn ngon mặc đẹp thì dễ lười biếng, khó thiền định, tụng kinh, niệm Phật.

Khi ăn cơm, một vị Tăng phải Tam đề, Ngũ quán. Bắt đầu bữa phải ăn ba miếng cơm nhạt, khi nhai miếng thứ nhất phải nguyện không làm điều ác, khi nhai miếng thứ hai phải nguyện chỉ làm việc lành, khi nhai miếng thứ ba phải nguyện cứu độ tất cả chúng sinh. Đó là Tam đề, nhắc nhở phải giữ giới, tu thiền, tự giác, giác tha. Còn Ngũ quán là trong khi bưng bát cơm ăn phải quán năm công ơn mà mình đang thọ hưởng: công ơn Phật giáng trần cứu độ chúng sinh, công ơn sư trưởng dạy dỗ, công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, công ơn thí chủ cúng dường, công ơn mọi người trong xã hội làm lụng khó nhọc mới có gạo ăn, vải mặc... Phải quán sát rõ ràng mấy bát cơm này do đâu mà có, rồi phát sinh tâm tinh tấn tu hành để báo đáp lại mọi công ơn mà mình đang hưởng thụ. Đó là Ngũ quán mà các vị Tăng phải thực hành trong suốt bữa ăn, không được chuyện trò vô ích; vì vậy trong bữa ăn, các vị Tăng đều yên lặng để thực hành Ngũ quán, nếu nói cười lăng xăng thì làm sao mà quán sát được.

Đức Phật dạy: Nếu thiếu Tam đề, Ngũ quán thì thức ăn không tiêu, nghĩa là mắc nợ chồng chất, nghiệp chướng đầy dẫy, phải trả quả nặng nề khổ sở. Đức Phật dạy các vị Tăng không được ăn quá giờ Ngọ, vì ăn cơm chiều thì nặng bụng khó ngồi thiền định, tĩnh tâm, lại làm các quỷ đói nghe tiếng động của bát chén mà thèm thuồng ăn uống.

Như vậy rõ ràng là hưởng sự cúng dường của thí chủ rất là khó khăn và đáng sợ, ai phí phạm của thường trụ thì phải trả quả báo nặng nề, đừng tưởng của chùa muốn sao cũng được. Các cụ Việt Nam thường dạy con cháu: Của chùa lấy một đền mười. Các vị Tăng cần phải quán tâm về sự hưởng thụ và phải tinh tấn tu hành để đáp lại công ơn của thí chủ, nếu không thì sẽ chịu quả báo như câu chuyện Thạch nữ dưới đây:

Hoàng hậu vợ vua Ba Tư Nặc (Ấn Độ) đi nghe Phật thuyết pháp, thường ngồi kiệu do bốn Thạch nữ khiêng (Thạch nữ là người ái nam, ái nữ, không có dục tính, tâm tình thô bạo, thân thể cứng như đá). Phật dạy: Một kiếp nọ có bốn vị Bà la môn xuất gia nhưng lười biếng chẳng chịu tu hành; họ mưu mô với nhau, ba người ngồi dưới gốc cây giả dạng thiền định, còn người thứ tư thì vào thành nói rằng có ba vị A la hán đã đắc quả, ai cúng dường thì được nhiều phước báu. Họ cứ thay phiên nhau mà loan truyền như vậy, dân chúng kéo đến cúng dường rất đông, do đó bốn người được no đủ. Trong số thí chủ có một bà già nghèo khổ, làm lụng khó nhọc mới có đủ cơm ăn, nhưng ngày nào cũng nhịn một bát cơm để cúng dường bốn vị này, nhận mấy vị này làm thầy, hầu hạ, quét dọn với một tâm ý hoàn toàn thanh tịnh. Do phước báu tốt đẹp, kiếp này bà sanh làm hoàng hậu, giàu có xinh đẹp. Còn bốn vị Bà la môn tu hành giả dối thì tái sinh làm Thạch nữ khiêng kiệu hầu bà để trả nợ tiền căn". Nghe Phật nói xong, hoàng hậu sợ quá không dám bắt bốn vị thầy cũ của mình ở kiếp trước phải khiêng kiệu, hầu hạ cực nhọc, mà còn cho họ được tự do, thoát vòng nô lệ. Nhưng được tự do, bốn người Thạch nữ lại không sao kiếm được miếng ăn, vì dân chúng chẳng ai mướn họ. Bị đói khát, họ lại đến xin hoàng hậu cho tiếp tục khiêng kiệu như trước.

Thiết tưởng câu chuyện này đáng được nhiều người suy gẫm, các vị xuất gia phải tu hành sao cho xứng đáng là Tăng, còn các Phật tử tại gia hãy suy xét, cúng dường những vị Tăng chân chính.

Đức Phật luôn nhắc nhở các vị Tăng phải tu hành tinh tấn, trên cầu đạo giải thoát, dưới cứu khổ chúng sinh, sống cuộc đời dứt bỏ, coi danh lợi như mớ tóc đã cạo ngày xuất gia, ngày đêm nhớ luật vô thường, nắm lý vô ngã, cần tu hành như lửa cháy dầu, đêm đặt mình xuống giường không biết sáng mai còn thở nữa không? Quỷ vô thường đến gọi lúc nào không báo trước và cũng không hẹn phút giây.

Trên đây chỉ là phác họa những định nghĩa, giới luật và lý tưởng của một vị Tăng. Nếu ai đã có đủ những điều kiện này, thì đó là một vị Tăng chân chính, đúng là con Phật chúng ta cần quỳ lễ lạy, thân cận học hỏi và cúng dường. Đó là chúng ta đã tìm thấy Tăng, đúng nghĩa chân thật của người con Phật "Chúng trung tôn", nghĩa là người đáng được tôn kính trong Tăng chúng. Nhưng trái lại, nếu thấy một vị Tăng nào, cũng ở chùa, giữ chức tước này nọ mà không theo được phần nào những điều kiện tối cần cho việc tu hành, thì đó không phải là một vị Tăng chân chính, không xứng đáng là con Phật, chúng ta cần xa lánh, đừng vin vào câu "Thờ Phật thì trọng Tăng", kẻo vô tình làm hại các vị đó kiếp sau phải trả quả cực nhọc như các Thạch nữ.

Tìm thấy Tăng qua hình bóng của một vị xuất gia giữ giới tu hành chân thật, mới là đúng về mặt sự mà nói. Còn cao hơn một bậc nữa nếu đứng về lý thì Tăng là sự thanh tịnh, hòa hợp, nhu nhuyễn, tượng trưng cho một đời sống thanh cao, an tịnh, huyền diệu, tất cả những gì thanh thoát nhẹ nhàng, nâng cao con người hướng về nẻo thiện, quay về chân lý, như làn gió mát đồng quê, như bản nhạc êm dịu, như ánh trăng trong sáng xuyên qua bóng tối chập chờn, như tiếng chuông chùa văng vẳng buổi hoàng hôn... tất cả những gì nhắc nhở chúng ta phải bỏ lòng ích kỷ, mở rộng tình thương, phải sống cho tất cả muôn loài, phải giúp ích cho xả hội cùng tiến trên con đường làm lành lánh dữ, tự giác giác tha... đó chính là Tăng, là lý tưởng của cuộc đời giải thoát.

Tìm biết lý tưởng tu hành, sống với lý tưởng, đạt được lý tưởng, thì chúng ta đã tìm thấy Tăng, là đức tính thanh tịnh sẵn có trong tâm. Đừng vọng ngoại tìm cầu, vị Tăng thanh tịnh lúc nào cũng có sẵn trong tâm, hãy lắng lòng mà quay về bên trong thì sẽ trông thấy Tăng, nghe thấy Tăng và học hỏi với Tăng, đây mới chính là vị thầy chân chính, cao quý hơn hết, đây mới chính là vị thầy sẽ hướng dẫn chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát. Chúng ta cần quy y với vị Tăng trong tâm chúng ta, một vị thầy không bao giờ sai lầm. Ngài sẵn sàng dạy dỗ chúng ta như mẹ hiền thương con, miễn là chúng ta biết quay về với ngài, đó là vị Tăng thanh tịnh, đó chính là chân tâm, Phật tánh.

(1) Trích: Minh Tâm, "Tìm Phật Ở Đâu?", NXB Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ


Bài đọc thêm:

CHỈ TIN MỘT NGƯỜI - Quảng Tánh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 7313)
Huế, không khí vẫn bình lặng, sự bình lặng làm cho những ai quen sống cuộc đời phóng túng phải kinh hãi và họ kinh hãi là phải lắm, vì rất ít ai có khả năng nghe được tiếng nói từ bình lặng và hiến dâng trọn vẹn cho sự bình lặng đó. Ngày xưa, khi những vị giáo sĩ ngoại đạo tranh cãi nhau, làm cho không khí xáo động hết bình lặng, hoặc tình cờ, hoặc vì chủ đích, đức Phật đi đến giữa chúng tranh cãi ấy, thì trong chúng đó họ tự bảo nhau: “Đức Gotama đến kia kìa! Ngài là bậc an tịnh, trầm lặng, Ngài không muốn ồn ào!”. Họ nói với nhau như vậy xong, họ liền giữ sự im lặng mỗi khi gặp đức Thế Tôn.
08/11/2021(Xem: 7273)
Mùa xuân là hình ảnh của con người. Tâm của con người như thế nào, nó sẽ tạo ra mùa xuân cho con người đúng như thế ấy. Tâm của một người xấu thì không thể nào tạo ra một mùa xuân đẹp cho chính mình, huống hồ gì họ có thể tạo ra một mùa xuân đẹp cho gia đình và xã hội. Mùa xuân là hình ảnh của cộng đồng người. Tâm thức của cộng đồng người như thế nào, họ sẽ tạo ra mùa xuân cho chính cộng đồng của họ đúng như thế ấy. Tâm của một cộng đồng người đặt đức tin của họ vào những thế lực ngoại tại, thì tự thân của cộng đồng đó sẽ tạo ra những biểu tượng thần thánh để tôn sùng và tô vẽ cho mùa xuân của cộng đồng họ qua hình ảnh thánh thần.
08/11/2021(Xem: 8773)
Sáng ngày 6/11/2021, tại thôn Nà Danh, xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, Đại diện Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, và các nhà tài trợ doanh nhân Phật tử Công ty TNHH ToTo, Cục Hải Quan Hà Nội, Công ty Cổ Phần TM&DV Ngọc Hà, Công ty TNHH Kentetsu World Express Việt Nam, Công ty Cổ Phần Tư Vấn Công Nghệ Thiết Bị và Kiểm Định xây dựng CONINCO, cùng Đại diện Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân xã Lê Lai đã tiến hành Khánh thành trường Mầm non trên địa bàn xã.
08/11/2021(Xem: 5274)
Thói quen của chúng sinh thường tự cho mình là trung tâm, và việc mãi mê những ham muốn vật chất không bao giờ thỏa mãn. Đối với mọi thứ trên đời, các bạn muốn sở hữu những thứ tốt, và từ chối những cái xấu, tức là tham lam và chán ghét. Khi tâm trí con người bị chi phối bởi hai thế lực này, họ không thể nhìn nhận sự việc một cách khách quan, và cách đối nhân xử thế dễ bị trục trặc. Một số người nổi tiếng, nhưng họ thực sự có hạnh phúc? Một số người không ngần ngại sử dụng các phương tiện không chính đáng để đạt được danh và lợi, chẳng hạn như làm hại người khác vì lợi ích riêng cho bản thân, hoặc ức hiếp đánh đập những người mà họ không thích. Mọi người không ngừng suy nghĩ về sự khác biệt, và họ có thể cảm thấy tội lỗi khi tỉnh giấc lúc nửa đêm dài trong mộng. Nếu tâm không thể thanh thản thì khó có thể gọi là một cuộc sống hạnh phúc.
08/11/2021(Xem: 5408)
Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.
08/11/2021(Xem: 5710)
Tổ chức Từ thiện Xã hội Cộng sinh Toàn cầu và Thiếu Lâm Tự (소림사), thành phố Bucheon, Gyeonggi, Hàn Quốc đã hoàn thiện trong xây dựng ngôi Trường Tiểu học Bucheon Sorimsa (부천소림사초등학교) và trao tặng một nơi lý tưởng học tập cho các em thiếu niên tại Nepal.
08/11/2021(Xem: 15303)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
08/11/2021(Xem: 11447)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
07/11/2021(Xem: 4563)
Phần này bàn về cách dùng đã, đã đã, đã tật và làm đã, đã làm vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Ngoài các bản Nôm của LM Maiorica ghi ở đoạn sau, tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
04/11/2021(Xem: 7790)
Sau đây là bản Việt dịch bài giảng pháp của Đại Sư Mahasi Sayadaw (1904-1982) trước các thiền gia trong buổi lễ khai thị ở trung tâm thiền tập Mahasi Meditation Center, Rangoon, Miến Điện. Bài này được dịch từ tiếng Miến sang Anh ngữ bởi Unyi Nyi, và sửa chữa lại năm 1997 bởi Đại Sư Pesala.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]