Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về Phật giáo ứng dụng (4)

01/09/201211:25(Xem: 12227)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về Phật giáo ứng dụng (4)

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG
(4)
Tác giả: Đức Dalai Lama
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

many-ways-to-nirvana_dalailama

HỎI: Có sựkhác biệt nào giữa tâm linh quang và Phật tính?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Chúng là giống nhau. Phật tính[1]có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó khônglà một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơlà điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.

HỎI: Có phảithiền quán chiếu tuệ minh sát hay vipassana là con đường duy nhất để giác ngộkhông?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tùy thuộc vào ý nghĩa củachúng ta về giác ngộ là gì. Trên mộttrình độ, chúng ta nghĩ về một tâm giác ngộ như thể hiện phức tạp hơn hay thông tuệ hơn. Nhưng tôi nghĩ giác ngộ có những trình độ đadạng. Cũng thế tuệ minh sát có những sựđa dạng và trong khi một số hình thức nào đấy là hữu ích trong việc đạt đến nhữnghình thức nào đấy của giác ngộ, thật khókhăn để nói, không có sự hạn chế, rằng qua tuệ minh sát người ta có thể đạt đếngiác ngộ. Đây là một câu hỏi khó.

HỎI: Tại saonăng lực của xấu ác lại to lớn hơn thánh thiện?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không nghĩ điều này là sựthật. Năng lực của xấu ác đôi khi là rấtmạnh mẽ, nhưng chỉ tạm thời. Về lâu vềdài, tôi không nghĩ nó hùng mạnh hơn thánh thiện.

HỎI: Tự ngã và tự trọng là hai cảm xúc xung đột nổi bậttrong bản chất con người. Người bình thườngrút ra những giá trị tích cực từ hai cảm nhận này qua việc áp dụng hành xả nhưthế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Trước nhất, tôi không nghĩ tựngã và tự trọng nhất thiết là những thuật ngữ mâu thuẩn. Khi chúng ta nghĩ về việc phát triển những phẩmchất tích cực như tâm giác ngộ (bodhicitta) hay vị tha, chúng ta nhận ra rằngchúng ta cần một cảm giác mạnh mẽ của tự ngã và tự trọng. Tôi cho rằng chúng ta có thể nói có hai loạitự ngã. Một là tích cực. Một thí dụ của điều này là khi chúng ta pháttriển tự ngã của chúng ta, nghĩ rằng chúng ta phải đạt đến giác ngộ để có thểlàm lợi ích cho tất cả những chúng sinh khổ đau. Một trong những lời nguyện cầu tôi mến chuộng là , "Khikhông gian còn tồn tại, tôi sẽ hiện hữu." Ở đây, chúng ta cần một ý thức mạnhmẽ của 'cái tôi', một tự ngã mạnh mẽ nhằm để hữu dụng cho người khác. Nhưng tự ngã tiêu cực là lòng vị kỷ cựcđoan. Tự ngã ấy đưa đến việc làm tổn hạivà khai thác người khác.

HỎI: Ai là đấngtạo hóa, ai tạo ra đấng tạo hóa, và tại sao?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Đối với những người Phật tử,đấy là vấn đề: một đấng tạo hóa xuất hiện như thế nào? Đấy là tại sao Phật Giáo đồ không công nhận mộtđấng tạo hóa. Nhưng, dĩ nhiên, như tôiđã đề cập phía trước, chúng tôi tôn trọng khái niệm và tầm quan trọng của nó vớinhững người khác.

HỎI: Nếuchúng ta không phát huy luyến ái hay gắn bó (mà cũng là dính mắc), làm thế nàonhững mối quan hệ phát triển?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tình bạn và dính mắc là haithứ khác nhau. Một trong những người bạncủa tôi, một nhà khoa học nguyên tử người Chi lê, một lần đã nói với tôi rằngkhi chúng ta tiến hành trong bất cứ sự nghiên cứu và phân tích thuộc phạm vikhoa học nào, chúng ta phải duy trì tính khách quan. Chúng ta phải tiến hành một cách hoàn toàn trong sự phân tích, nhưng cùng lúc ấy,chúng ta phải vô tư. Điều ấy cũng áp dụngở đây như thế.

HỎI: Điều gìquan trọng nhất mà chúng ta có thể làm để đạt đến một thế giới hòa bình vàkhoan dung?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi nghĩ việc đạt đến một thếgiới hòa bình phải cần thời gian. Điều ấyphải được bắt đầu tại những trình độ căn bản nhất, với những cá nhân và giađình, và lớn mạnh từ đấy.

HỎI: Làm thếnào chúng ta có thể phân biệt giữa lòng bi mẫn ngốc ngếch và lòng rộng lượng?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Câu hỏi không rõ ràng. Lòng bi mẫn ngốc ngếch là thế nào?

THÍNH CHÚNG: Thưa ĐứcThánh Thiện, nó có nghĩa là thể hiện lòng bi mẫn một cách mù quáng, không có đườnghướng mục tiêu.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Thế thì, một cách thật sự, bimẫn ngốc ngếch hoàn toàn không phải là lòng bi mẫn hay từ bi.

HỎI: Thôngđiệp của ngài gởi cho những nhà chính trị trên thế giới là gì?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Hãy chân thật. Hãy ân cần.

HỎI: Một ngườibình thường với những trách nhiệm gia đình đạt đến niết bàn và giác ngộ đượckhông?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Ô, vâng, không cần phải hỏi về điều ấy.

HỎI: Chúngta tìm hạnh phúc chân thật như thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Theo quan điểm của nhà Phật,hình thức hòa bình tối thượng là sự chấm dứt thật sự hay niết bàn. Thể trạng của của sự ngừng dứt thật sự khôngphải là kinh nghiệm tinh thần thoáng qua. Một khi chúng ta đạt được thể trạng ấy, chúng ta sở hữu một niềm hòabình và hạnh phúc trường cửu, ổn định.

HỎI: NgườiPhật tử hổ trợ cho vấn đề Tây Tạng ở Ấn Độ và ở phương Tây như thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Ngày nay, trong những người Hoa, sự quan tâm về Giáo Pháp đang lớn mạnh,một cách tổng quát, và trong Phật Giáo Tây Tạng nói riêng. Về lâu về dài, điều này là một nhân tố tích cựccho những vấn đề của Tây Tạng. Vì thế,chúng ta phải làm rõ ràng những gì thật sự là truyền thống Phật Giáo Tây Tạng. Đấy là một truyền thống thuần khiết của NaLan Đà. Nhiều người Ấn Độ tỉnh thức rằngNa Lan Đà là một trung tâm học tập, một nơi cho sự phát triển những truyền thốngthông tuệ. Kém may mắn thay, Đạo PhậtTây Tạng đôi khi được trình bày trong những khía cạnh nông cạn của nó, với những mặt nạ và vô số nghi thức. Trong điều này, tôi nghĩ có một hiểm họa thậtsự trong việc thấu hiểu sai lầm Phật Pháp. Nếu chúng ta giải thích rõ ràng rằng truyền thống Phật Giáo Tây Tạng làmột sự tiếp nối của truyền thống Na Lan Đà thuần khiết, sự hiểu sai lạc sẽkhông sinh khởi.

HỎI: Ai phụngsự chúng sinh tốt hơn? Thập địa Bồ táthay Đức Phật?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Câu hỏi có một yếu tố nào đấyngớ ngẫn. Nếu một vị Bồ tát Thập địa cótrình độ khả năng cho phép một sự so sánh trực tiếp với Đức Phật, ngay câu hỏivề việc trở nên giác ngộ xa hơn không phát sinh. Tuy thế, như được nói rằng, một vị Bồ tát Thậpđịa đã đạt được một trình độ mà trên ấy ngài có thể phụng sự chúng sinh trong mộtphong cách hoàn toàn có thể so sánh với thể trạng của một vị Phật.

So sánhvới những vị Bồ tát trong chín địa đầu tiên[2],một vị Bồ tát ở địa thứ mười ở trình độ cao nhất được gọi là Bồ tát Pháp Vân Địa. Sau địa này là tầng bậc của việc đạt đến giácngộ, và một sự tôn trọng đặc biệt được biểu lộ cho trình độ bồ tát này (ĐẳngGiác Bồ tát[3]). Đôi khi ngay cả danh xưng cũng được gọi là"Phật địa" (the bhumi of theBuddha).

HỎI: Thưa ĐứcThánh Thiện, khi người ta ngã bệnh, họ trải qua những sự kích động kinh khủngvà đánh mất tính hành xả, trầm tĩnh của họ. Chúng tôi quan tâm muốn biết những gì Đức Thánh Thiện trải nghiệm khingài không được khỏe?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi đã ở Bihar, một trong nhữngtiểu bang nghèo nhất. Trong khi tôi đingang qua Na Lan Đà, Ragir, Bodhgaya, và Patna, tôi đã thấy nhiều người nghèokhổ, đặc biệt là những đứa con nít và người già, nhiều người trong họ rất bệnhhoạn. Dường như không có ai chăm sóc nhữngngười như vậy. Ở khách sạn Patna, tôi bịbệnh và trải qua những cơn đau kinh khiếp. Nhưng, về tinh thần, tôi bắt đầu quán chiếu trên những người nghèo màtôi đã thấy trước đây, đặc biệt là những đứa con nít. Thế nào đấy, tâm tư tôi đã chệch hướng khỏicơn đau. Đấy là một thí dụ về việc thựchành từ bi và có ý thức ân cần cho người khác đã làm lợi ích cho chính mình rấtnhiều. Nổi đau của chính mình thế nào đấybị quên đi.

Thôngthường, khi có những sự tập hợp của Phật tử, chúng ta tụng lại những câu kệ choviệc phát sinh tâm giác ngộ (bodhicitta) và quán chiếu trên ý nghĩa ấy.

Câu thứnhất liên hệ đến việc tiếp nhận quy y trong Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Câu thứ hai liên hệ đến việc phát sinh tâmgiác ngộ và vị tha. Và câu thứ ba liên hệđến việc làm mạnh mẽ và nổi bật những sự thực hành của bồ tát. Thông thường, khi tôi tiến hành một nghi thứcngắn cho việc phát triển tâm giác ngộ, tôi căn cứ trên những câu kệ này.

Quý vịnên quán tưởng, trước tiên nhất, rằng trong sự hiện diện của một tranh tượngthangka hay một hình tượng của Phật, quý vị ở trong sự hiện diện thực sự của ĐứcPhật Thích Ca Mâu Ni. Sau đó, trong sựhiện diện của sáu Đức Trang Nghiêm[4]và hai Đức Tối Thượng[5].

ducphatthichca_4

Đức Phật Thích Ca vớisáu Đức Trang Nghiêm và hai Đức Tối Thượng

Quý vịquán tưởng rằng quý vị đang thấy tám vị đại đạo sư của Na Lan Đà. Hãy quán tưởng rằng đây không chỉ là hình tượngthangka, mà có ý nghĩa sự hiện diện thật sự của các ngài. Và quán tưởng rằng trong sự hiện của Đức Phậtvà những đại đạo sư này, những vị đại thành tựu cao cả, quý vị tiếp nhận quy y,phát tâm giác ngộ vì lợi ích của tất cả những chúng sinh khổ đau.

Đối vớinhững ai thuộc truyền thống khác, quý vị có thể quán chiếu trên những vị thầy củatôn giáo quý vị.

Lập lạinhững dòng kệ này ba lần. Tôi cũng đãliên hệ trước đây. Năng lực của nhữngdòng kệ này không bao giờ sai chạy:

Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sinh
Con luôn luôn quy y
Trong Phật, Pháp và Tăng
Cho đến khi con đạt được giác ngộ.
Được làm cho nhiệt tình bởi từ bi và tuệ trí
Hôm nay với sự hiện diện của Đức Phật
Con phát sinh tâm vì sự tỉnh giác trọn vẹn
Vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Khi không gian còn tồn tại
Khi chúng sinh còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan khổ đau cho trần thế.

TalkotoraIndoor Stadium, 2003

Nguyên tác:trích từ chương Cultivating Equanimity của quyển Many Way to Nirvana

ẨnTâm Lộ ngày 2011



[1]Phậttánh: Linh quang bản nhiên mà tất cả chúng sinh sở hữu, là nhân tố có khả năngđể tất cả chúng sinh trở nên giác ngộ bằng việc loại trừ hai chướng ngại: chướngngại cho giải thoát và chướng ngại cho toàn giác.

Buddha nature: The clear light nature of mindpossessed by all sentient beings, which is the potential for all sentientbeings to become enlightened by removing the two obscurations: the obscurationto liberation and the obscuration to omniscience.

[2]1-Hoan hỉ địa, 2- Ly cấu địa, 3- Phát quang địa, 4- Diệm tuệ địa, 5- Nan thắng địa,6- Hiện tiền địa, 7- Viễn hành địa, 8- Bất động địa, 9- Thiện tuệ địa, 10- Phápvân địa

[3]11- Đẳng giác, 12- Diệu giác, 13- Toàn giác (Phật quả).

[4]1- Long Thọ, 2-Thánh Thiên, 3- Vô Trước, 4- Thiên Thân, 5- Trần Na, 6- Pháp Xứng.

[5]Gunaprabha vàShakyaprabha.

Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (2)

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (3)

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (4)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5018)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5239)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8017)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6154)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5634)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9206)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5740)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5746)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]